Tam Tổ Trúc Lâm

04/ 12/ 2012 02:13:17

Trúc Lâm Tam Tổ là ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm. Dòng Thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258-1308) khởi lập. Nhà vua được thờ là “Tổ Thứ Nhất”. “Tổ Thứ Hai” là thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330), “Tổ Thứ Ba” là thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334).

 

VUA TRẦN NHÂN TÔNG,

ĐỆ NHẤT TỔ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ (1258 – 1308)

Vua tên là Khâm, đản sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ VIII (1258), con trưởng thượng hoàng Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Năm 16 tuổi, được lập làm Thái tử, vua có ý từ chối, xin nhường cho em nhưng không được vua cha chấp thuận. Vua bản tính thông minh, học rộng, đa tài, đọc hết các sách sử thế gian; về Phật học, cũng rất tinh tường, thường cùng các vị tôn đức trong thiền gia giảng cứu Thiền học; nhất là được sự giáo huấn của ngài Tuệ Trung Thượng sĩ, nên vua am hiểu Phật pháp đến chỗ uyên áo. Năm vua 21 tuổi, được Thượng hoàng truyền ngôi và lấy hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên (1279). Tuy ở ngôi chí tôn, vua vẫn giữ mình thanh tịnh, ban ngày làm việc triều chính, đêm về nghỉ ở chùa Tư Phúc trong nội thành.

Vua trị vì mười lăm năm (1279 – 1293). Quốc sử ghi: “Vua giáng sinh có được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung (tức hai bà phi) đều cho là lạ, gọi là “Kim Tiên đồng tử” (sách Tam Tổ Thực Lục gọi là “Kim Phật”); ở vai bên trái có một nốt ruồi đen, cho nên cố thể cáng đáng được việc lớn. Vua lên ngôi năm 21 tuổi, trị vì 14 năm, đến niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (năm Quí Tị) thì nhường ngôi cho con là Anh Tông. Cách mấy năm sau vua xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, rồi sau ra tu ở núi Yên Tử và băng ở am Ngọa Vân. Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng làm vẻ vang đời trước. thực là vị vua hiền của nhà Trần…” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (1293), vua truyền ngôi cho con là thái tử Thuyên (tức vua Trần Anh Tông), rồi về Thiên Trường làm thái thượng hoàng 6 năm, để dạy con cách quản trị việc nước.

Niên hiệu Hưng Long thứ III (1295) vua dời đến ở hành cung Vũ Lâm, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Đây là năm đầu tiên khởi sự “thực tập xuất gia”, vua có làm bài thơ Vũ Lâm Thu Vãn:

“Hoa kiều đảo ảnh trám khê hành

Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh.

Tịch tịch thiên sơn, hồng diệp lạc,

Thấp vân hòa lộ tống chung thanh”

CUỐI THU Ở HÀNH CUNG VŨ LÂM

Con khe dìn ngược bóng cầu

Hắt lên một vết sáng màu tà dương.

Núi non lặng trút là hường,

Móc dầm mây ướt đưa đường tiếng chuông. (Bản dịch Giản Chi)

Vua chỉ ở hành cung Vũ Lâm trong thời gian ngắn, rồi trở lại quê hương ở Thiên Trường (Nam Định), mở Vô Lượng Pháp Hội tại chùa Phổ Minh “bố thí tiền của, vải vóc, vật thực và trợ cấp cho những nơi mất mùa nghèo đói…”

Niên hiệu Hưng Long thứ VII (1299(, vua cho dựng thảo am ở ngọn Tử Tiêu, núi Yên Tử, lấy pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà, hiệu là Đại Hương Hải Ấn Thiền Sư. Vua là người sáng lập pháo thiền Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, hoàn toàn mang trái tim, khối óc và hơi thở Việt nam, và cho lập chùa Long Động (ở bên nuí) để độ tăng và giảng dạy Chính Pháp. Số học chúng tới xin thụ giáo đông có hàng ngàn.[131]

Cũng trong năm 1299, vua Anh Tông sắc cho ấn hành cuốn “Phật Giáo Pháp Sự Đạo Tràng Công Văn Nghi Thức” để phổ biến trong toàn quốc, ghi dấu ngày thượng hoàng Nhân Tông xuất gia.

Niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304), vua lấy đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, rồi cùng với đệ tử là tôn giả Pháp Loa và mười đồ đệ đi khắp nẻo thôn quê giảng pháp, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, thực hành giáo lý Thập Thiện,[132] với mục đích xây dựng một xã hội đạo đức “nhân gian tịnh độ”.

Sau đó Giác Hoàng trở về chùa Sùng nghiêm, ở Linh Sơn, mở khoá dạy thiền:

Mở đầu Pháp hội, ngài nói: Đức Thích Ca Văn Phật, vì một đại sự nhânn duyên, thị hiện xuống cõi đời, ròng rã ngót nửa thế kỷ “hoằng pháp độ sinh”, nhưng Phật vẫn tự nhận là “chưa hề nói một chữ…”

Nay ta lên ngôi tòa này, chẳng biết phải nói gì với các ngươi?

Một vị tăng đứng dậy, chắp tay bạch:

– Thế nào là Phật?

Ngài đáp:

– Chấp theo lối cũ là không đúng.

Lại nói tiếp:

– Thế nào là Pháp?

Ngài đáp:

– Chấp theo lối cũ là không đúng.

Hỏi tiếp:

– Thế nào là tăng?

Ngài đáp:

– Chấp theo lối cũ là không đúng.

Lại hỏi:

– Cứu cánh sẽ ra sao?

Ngài đáp:

– Tám chữ [133]

Cuối năm 1304, vua Anh Tông cung thỉnh Giác Hoàng về kinh đô Thăng Long xin thụ Bồ Tát Giới Tại Gia. Năm 1306, Giác Hoàng vào tu trong am Ngọc Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ.

Niên hiệu Hưng Long thứ XVI (1308), ngày 1 tháng giêng năm Mậu Thân, Giác Hoàng chính thức ủy cử tôn giả PHÁP LOA, đảm nhận chức trụ trì chùa báo Ân, ở Siêu Loại (Bắc Ninh).[134]

Tháng 4 Giác Hoàng đích thân tới chùa Vĩnh nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) chủ trì và giảng Truyền Đăng Lục và bảo quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây.

Sau ngày làm lễ “tự tứ”, kết thúc ba tháng hạ, Giác Hoàng trở lại núi Yên Tử, và cho hết những tịnh nhân xuống núi, chỉ giữ lại mười vị thị giả theo ngài lên ở trên am Tử Tiêu và giảng riêng Truyền Đăng Lục cho tôn giả Pháp Loa. Giác Hoàng dạo khắp các hang động, lúc quá mệt, vào nghỉ ở Thạch Thất. Bảo Sát bạch:

– “Tôn Đức xuân thu đã cao, mà xông pha mưa nắng lỡ khi nóng, lạnh bất thường thi mệnh mạch Phật pháp biết nương tựa vào đâu?”

Giác Hoàng bảo:

– “Thời tiết đã đến, ta chỉ còn đợi ngày viên tịch nữa thôi”.

Ngày 5 tháng 10, bỗng có gia đồng của chị là công chúa Thiên Thụy lên tâu rằng:

– “Công chúa bị đau nặng, chỉ mong được diện kiến Tôn Đức trước khi nhắm mắt”.

Giác Hoàng bùi ngùi than:

– “Thời tiết mà thôi vậy!”

rồi xuống núi cùng với một thị giả đi hầu. Ngày mồng mười thì tới kinh, thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi, đêm nghỉ ở chùa Siêu Loại. Sáng dậy đi bộ ghé ngang qua chùa làng Cổ Châu, và đề bài thơ:

“Thế số nhất tức mặc,

thời tình lưỡng hải ngân.

Ma cung hồn quản thậm,

Phật quốc bất thăng xuân”.

Dịch:

Kiếp người một hơi thở!

Tình đời đôi mắt buồn…

Cung ma nhiều rối rắm

Cõi phật vui nào hơn.

Ngày 17, nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm, núi Linh Sơn, hoàng thái hậu Tuyên Từ thỉnh về am Bình Dương phó trai. Giác Hoàng vui vẻ nói: “Đây là buổi cúng dường cuối cùng”!

Ngày 18 lại lên đường, tới chùa Tú Lâm, ở ngọn An Sinh, Giác Hoàng bị nhức đầu, bảo hai vị tỳ khưu Tử Doanh và Hoàn Trung rằng: “Ta muốn lên đỉnh Ngọa Vân mà chân yếu quá, không thể lên nổi, phải làm sao?”  -Hai vị tỳ khưu bạch: “Hai chúng con xin đỡ ngài đi”. Vừa đến am Ngọa Vân, Giác Hoàng cảm ơn hai vị và nói: “quí vị xuống núi tu hành đi, chớ coi thường sinh tử”.

Ngày 19, Giác Hoàng bảo thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu, núi Yên Tử, gọi Bảo Sát đên gấp.

Ngày 20, Bảo Sát đeo tay nải ra đi, đến Doanh Tuyền bỗng thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua núi Lỗi thì dừng lại. Bỗng nhiên nước dâng lai láng, cao đến vài trượng, khi nước rút xuống, thấy hiện hai con rồng, đầu như đầu ngựa, ngóc cao hơn một trượng, hai mắt sáng như sao, chỉ trong khoảnh khắc, rồi biến mất. Chiều tối, Bảo Sát phải nghỉ lại ở sườn núi, đêm chiêm bao thấy hiện những điềm bất thường.

Ngày 21, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Giác Hoàng trông thấy cười và nói: “Ngươi sao đến chậm thế? Ta sắp đi đây. Trong Phật Pháp có điều nào còn ngờ thì hãy nói gấp đi”.

Bảo Sát thưa: “Khi đại sư Mã Tổ bệnh, vị viện chủ hỏi: Những ngày gần đây Tôn Đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật. Vậy ý ấy thế nào?”

Giác Hoàng lớn tiếng: “Ngu đế và Tam hoàng là vật gì?”

Bảo Sát nói: “Hoa nở sum suê màu rực rỡ, tre phương nam với gỗ phương bắc phải hiểu thế nào?”

Giác Hoàng nói: “Ngươi là kẻ ngu”.

Bảo Sát liền thôi.

Suốt mấy hôm trời đất mù mịt tối tăm, gió bão nổi lên, mưa tuyết làm ướt đẫm cây cỏ; vượn, khỉ liệng quanh am gào khóc thê thảm, chim núi cùng hót giọng buồn rầu…

Ngày 1 tháng 11, vào lúc nửa đêm, tự nhiên trời quang mây tạnh, sao sáng đầy trời. Giác Hoàng gọi Bảo Sát:

“-Bây giờ là giờ gì?”

Bảo Sát thưa: “Giờ tý”.

Giác Hoàng đưa tay vén màn nhìn ra ngoài và nói: “Đã đến giờ ta đi đây”.

Bảo Sát hỏi: “Tôn Đức đi đâu bây giờ?”

Giác Hoàng nói bài kệ:

“Nhất thiết pháp bất sinh,

Nhất thiết pháp bất diệt.

Nhược năng như thị giải,

Chư Phật thường hiện tiền

Hà khứ lai chi hữu dã”.

(Các pháp vốn không sinh

Các pháp vốn không diệt

Nếu hiểu rõ như thế

Chư Phật thường hiện tiền…

Chẳng đi đâu mà cũng chẳng lại đâu cả).

Bảo Sát hỏi thêm: “Còn khi bất sinh bất diệt thì sao?”

Giác Hoàng bỗng nhiên xoè bàn tay và nói:”Đừng có ngủ mơ”.

Nói xong ngài nằm trên tòa sư tử mà hóa, trụ thế 51 năm[135] Tôn giả Pháp Loa rước ngọc thể lên hỏa đàn. Tương truyền: “Khi đó có hương thơm tỏa ra và thấy những tiếng nhạc ở trên trời, mây ngũ sắc tụ lại thành hình cái tàn để che nơi hỏa thiêu Thượng hoàng Nhân Tông. Tôn giả Pháp Loa thu nhặt ngọc cốt: ngoài xương (ngọc cốt) còn thấy những xá lợi ngũ sắc. Sách Tam Tổ Thực Lục ghi là sau khi hỏa thiêu có thu nhập được 3.000 xá lợi. Nhưng sách Tam Tổ Hành Trạng ghi là có 1.000 xá lợi. Sau lúc đó thì vua Trần Anh Tông và đình thần đến núi Yên Tử để chịu tang. Theo sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược HT Mật Thể ghi: vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về an thổ ở Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, lấy tên là “Huệ Quang Kim Tháp” và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”. trong sách  Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép: tên thụy hiệu của Thượng hoàng Nhân Tông là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hoá Dân Long Từ Hiển Huệ Thánh Văn Thần Vũ nguyên Minh Huệ Hiếu Hoàng Đế”.

Louis BEZACIER trong bài “Le Stupa du Phổ Minh Tự” nghiên cứu những tài liệu Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ hành Trang, Trúc lâm Tông Chỉ, Nam ông Mộng Lục và Tan Tổ Hành Trạng thì lễ táng của Trần Nhân Tông được tổ chức tại Hà Nội. Nhưng theo sách Nam ông Mộng Lục thì lễ hỏa táng ngọc thể của Trần Nhân Tông được tổ chức ở gần am Ngọa Vân.

“Trong lễ tang có hoàng tử Oanh (cũng gọi là Mạnh), lên 9 tuổi, đứng ở gần vua Anh Tông. Sách Nam Ông Mộng Lục chép là xá lợi của Thượng hoàng Nhân Tông đã bay đến ẩn trong áo của một hoàng tử con vua Trần Anh Tông và chiếu sáng lên. Vua Anh Tông quỳ lạy xin tuân lệnh, sau khi đó thì ánh sáng của xá lợi biến đi. Vua Anh Tông đã chọn vị hoàng tử đó làm đông cung thái tử. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng kể sự việc này và có ghi là vua Trần Anh Tông đã khóc và không còn nghi ngờ các xá lợi. Vua Anh Tông truyền để ngọc cốt trong bảo tháp xây trên lăng của Thượng hoàng Nhân Tông và những xá lợi chia làm hai phần đựng trong bình đựng di cốt. Sau lễ tang, ngọc cốt được đem chôn ở Đức Lăng, một phần xá lợi đặt ở tháp trong lăng (nhưng đặt ở kim tháp trong chùa Vân Yên trên núi Yên Tử).

“Các tài liệu trên đều không ghi ngày tháng cử hành lễ tang, Thượng hoàng Nhân Tông, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập VI, có ghi tháng 9 âm lịch, mùa thu năm 1310, an táng linh cửu Nhân Tông ở Đức Lăng, phủ Long Hưng, tỉnh Hưng Yên ngày nay.

“Như vậy theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì Thượng Hoàng Nhân Tông mất ở chùa núi Yên Tử vào tháng mười một âm lịch năm Mậu Thân (1308) và mãi tới tháng chín âm lịch năm Canh Tuất (1310) mới làm lễ an táng linh cữu ở Đức Lăng, nghĩa là linh cữu của Thượng hoàng Nhân Tông được an táng.

“Trong sách Tam Tổ Thực Lục chỉ ghi có hai nơi chôn ngọc cốt và xá lợi Thượng hoàng Nhân Tông là tháp Đức Lăng và tháp ở chùa Vân Yên, mà không nói phần xá lợi thứ hai được để ở đâu. Theo L. BEZACIER thì phần xá lợi này phải để ở tháp[136] xây ở trước chùa Phổ Minh, làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định”[137]

Theo Việt Sử Tiêu Án:  “Khi rước di hài vua Nhân Tông về táng ở Đức Lăng, lúc tử cung (quan tài của vua gọi là tử cung) sắp đưa ra, người xem đông chật cả cung, phải dùng đến lính ngự lâm để mởi lối đi cũng không được. Vua (Anh Tông) sai Trịnh Trọng Tử dẹp mở đường. Trọng Tử đến sân rồng gọi đạo quân Long Dực hát khúc long ngâm, dân chúng kéo đến đó xem; cung điện mới rộng chỗ đi được, lại lấy những câu hát ở dọc đường, phổ vào khúc hát, làm cho có tiếng hát liền mãi, không cần phải truyền bảo gì, mà khi đi lên, đi xuống, quanh chuyển, không có lo nghiêng lệch nữa. người đời bấy giờ khen là có xảo tứ.

“Xá lợi của vua Nhân Tông chia làm hai phần: một đưa về táng ở Đức lăng, một để ở tháp Yên Tử. Có thầy Tăng chùa siêu Loại là Trí Không đốt tay cháy từ bàn tay đến cánh tay, cứ ngồi nghiễm nhiên, không đổi sắc mặt. Vua Anh Tông hỏi, trả lời rằng: “Thần đốt đèn đó”. Lửa tắt, thầy về tăng viện ngủ kỹ, đến khi thức dậy chỗ phỏng lên đều khỏi cả. Đến lúc xá lợi vua Nhân Tông đưa để ở bảo tháp, thầy liền lên núi hầu hạ” (Sđd trang 225, 226).

Những tác phẩm do Giác Hoàng sáng tác gồm có:

Chữ Hán:

Tăng Già Toái Sự.

Thạch Thất Mị Ngữ.

Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục.

Trúc Lâm Hậu Lục.

Đại Hương Hải Ấn thi Tập.

Chữ Nôm:

Cự Trần Lạc Đào Phú[138] và Đắc Thú Lâm Tuyền Thánh Đạo Ca.

Ngoài ra, ngài còn là tác giả bài Thượng Sĩ Hành Trạng  (viết về cuộc đời của Tuệ Trung Thượng Sĩ) in ở sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục.

Dưới đây, chúng tôi xin trích dẫn ít bài thơ của ngài làm điển hình:

Thiên Trường Vãn Vọng

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lý qui ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Cảnh Chiều Ở Thiên Trường

Mờ mờ thôn trước, thôn sau,

Như không, như có trong bầu tịch dương,

Trâu theo sáo mục về chuồng,

Ruộng bên, từng cặp trắng buông cánh cò… (Bản dịch Giản Chi)

Lạng Châu Vãn cảnh

Cổ tự thê lương thu ái ngoại

Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.

Nguyệt minh sơn tĩnh bạch điểu quá,

Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.

Cảnh Chiều Châu Lạng

Lạnh lẽo chùa quê bóng mịt mờ

Thuyền ngư lẽo đẽo, tiếng chuông đưa.

Nước quanh, non tĩnh, con cò liệng,

Gió tạnh, mây in, lá đỏ thưa. (Ngô Tất Tố dịch)

XUÂN HIỂU

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ qui

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi.

BUỔI SỚM MÙA XUÂN

Thức dậy nhìn ra cửa

A, xuân đã đến kìa!

Có đôi bươm bướm trắng

Đậu cành hoa phất phơ…

XUÂN VÃN

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.

Như kim kham phá đông hoàng diện,

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

XUÂN MUỘN

Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không,

Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng.

Chúa xuân nay đã thành quen mặt,

Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng. (Ngô Tất Tố)

NGUYỆT

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,

Lộ trích thu đình dạ khí hư.

Thụy khởi hâm thanh vô mịch xứ,

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

TRĂNG

Đèn song chếch bóng, sách đầy giường,

Đêm vắng sân thu lác đác sương.

Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết,

Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương (Đào Phương Bình)

ĐẠI LÃM THẦN QUANG TỰ

Thần quang tự liểu hứng thiên u,

Sanh thỏ phi ô thiên thượng du

Thập nhị lâu đài khai họa trục,

Tam thiên thế giới nhập thi mâu.

Tục đa biến thái vân thương cẩu,

Tùng bất tri niên tăng bạch đầu.

Trừ khước trụ hương tham Phật sự,

Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu.

CHÙA THẦN QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM

Chùa vắng Thần Quang, hầu nhã hứng,

Chơi mây, thỏ ngọc, quạ vàng đưa.

Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ,

Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ.

Biển hóa thành dâu buồn thói tục,

Tùng không biết tuổi bạc đầu sư.

Ngoài câu cúng Phật, tuần nhang thắp,

Lo nghĩ bao điều, mấy cũng ngơ! (Khương Hữu Dụng)

ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ

Huân tận thiên đầu mãn tọa hương

Thủy lưu sơ khởi bất đa lương

Lão dung ảnh lý tăng quan bế

Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường.

ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH

Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà

Làn nước hiu hiu gió lạnh qua

Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ

Tiếng ve khơi động tứ thu xa. (Ngô Tất Tố)

ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

Địa tích đài du cổ,

Thời lai xuân vị thâm.

Vân sơn tương viễn cận,

Hoa kính bán tình âm

Vạn sự thủy lưu thủy,

Bách niên tâm ngự (ngữ) tâm.

Ỷ lan hoành ngọc địch,

Minh nguyệt mãn hung khâm.

Dịch nghĩa : LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất hẻo lánh, đài thêm cổ kính,
Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu.
Núi mây như xa, như gần,
Ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng.
Muôn việc như nước tuôn nước,
Trăm năm lòng lại nhủ lòng.
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc,
Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực.

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất vắng, đài thêm cổ,
Ngày qua, xuân chửa nồng.
Gần xa, mây núi ngất,
Nắng rợp, ngõ hoa lồng.
Muôn việc nước trôi nước,
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa hiên, nâng sáo ngọc,
Đầy ngực ánh trăng trong (Ngô Tất Tố)

Hai câu PHÁ, THỪA tả cảnh cô tịch của ngôi tháp đứng chơ vơ trên ngọn núi, nơi xưa nay ít có ai tới được; có lẽ tác giả là người duy nhất đã lên chơi núi Bảo Đài, nhìn ra chung quanh cảnh vật (lúc ấy) mùa xuân bắt đầu chuyển hiện, tuy chưa rực rỡ lắm, nhưng cũng gợi cho khách du quan cảm thức được vẻ đẹp huyền bí của thiên nhiên. Hai câu THỰC ghi hiện trạng cảnh núi đồi trùng điệp với những bóng mây ngũ sắc bay là là trên không, xen kẽ trong các hang hốc bên sườn núi có những bông hoa nở lúc đậm lúc lợt; thỉnh thoảng nghe điểm những tiếng chim kêu, vượn hót, hổ gầm đến rợn người… Đứng trên đài cao, ngắm bầu trời mặt đất mênh mông, huyền ảo đủ để tác giả lý hội trọn vẹn lẽ Sắc, Không mầu nhiệm – “cuộc đời là như thế đó” –để rồi dẫn đến hai câu LUẬN:

“Vạn sự thủy lưu thủy,

Bách niên tâm ngự tâm”.

Cảnh vật là vô thường biến đổi. Tất cả hiện tượng chỉ như dòng nước chảy trôi không bao giờ dừng nghỉ – Họa chăng còn rớt lại trên vết thời gian một chút dư âm “trăm năm: lòng nhủ lòng”. Nói theo thi hào Nguyễn Du:

“…Của TIN gọi một chút này làm ghi”.

Hai câu KẾT: Tác giả đứng cô đơn bên bức lan can, lấy ống sáo ra thổi để cho quên hết mọi suy tư…Nhưng kìa! Trăng đã mọc tự lúc nào? Rồi (bỗng nhiên) vầng trăng sáng ùa vào lồng ngực khiến khắp người cảm thấy thanh thoát nhẹ nhàng như hòa mình (tiểu ngã) vào với đại – ngã – thể – rộng – lớn – của – vũ – trụ – vô – biên. Vầng trăng là biểu tượng của CHÂN TÂM tồn tại trên sự sinh thành, hủy diệt của vạn pháp… Phải nói đây là bài thơ lẫm liệt có sức cuốn hút lạ lùng nên mỗi chữ, mỗi câu là những viên ngọc tỏa ánh sáng lung linh…

Có lần, Lý bạch (thời Thịnh Đường 715 –766) đến chơi lầu Hoàng Hạc, nhìn lên thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề ở vách tường, không phải nhà thơ kém tài… nhưng bao nhiêu ý sâu, lời đẹp Thôi Hiệu đã nói cả rồi (!) đành cắn bút thở dài, ngượng ngùng viết hai câu:

“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đài”.

(Có cảnh đẹp trước mắt mà không sao nói đựợc, vì trên lầu Thôi Hiệu đã có đề thơ quá hay).

Nguyên tác bài HOÀNG HẠC LÂU:

“Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ?

Thử địa không dư hoàng hạc lâu!

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản;

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán dương thụ;

Hoang thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

GÁC HOÀNG HẠC:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ!

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai! (Tản Đà dịch)

LẦU HOÀNG HẠC:

Người cưỡi hạc vàng xưa vắng bóng

Riêng lầu Hoàng Hạc cảnh chơ vơ

Hạc vàng, một thoáng đi biền biệt

Mây trắng bao đời vẫn nhởn nhơ.

Bén tạnh Hán Dương cây bát ngát

Bãi hoang Anh Vũ cỏ lưa thưa

Chiều tà, gợi nhớ đâu quê quán?

Khói sóng trên sông khách ngẩn ngơ!

Nếu đem bài Hoàng Hạc Lâu so với bài “Đăng Bảo Đài Sơn” ta thấy mỗi bài có những vẻ đẹp dị thường…

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (1)

(Thập hồi dụng diễn ca quốc ngữ phú)[139]

Đệ Nhất Hội

Mình ngồi thành thị,

Nết dụng[140] sơn lâm.

Muôn nghiệp lắng,[141] an  nhàn thể tính[142];

Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm.[143]

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí;

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm[144]

Nguyệt bạc vầng xanh, soi mọi chỗ thiền hà[145] lai láng;

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm[146]

Lừa hoán cốt[147], ước phi thăng, đan thần mới phục[148];

Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc quí còn đam[149].

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu ngọc;

Kinh nhàn đọc sách, trọng lòng rồi trọng nớ[150] hoàng kim.

Đệ Nhị Hội

Biết vậy:

Miễn được lòng rồi,

Chẳng còn phép khác.

Gìn tính sáng, tính mới hầu an;

Nén niềm vọng; niềm đành chẳng thác [151].

Dứt trừ nhân ngã [152], thì ra tướng thực kim cương[153];

Dừng hết tham sân[154], mới láu lòng mầu viên giáo[155].

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương[156];

Di Đà là tính sáng soi, mựa[157] phải nhọc tìm về Cực Lạc.

Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe;

Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán giác[158].

Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiếm thửa đắng cay;

Vận giẻ vận sui[159], thân căn có ngại chi đen bạc.

Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nớ[160] thiên cung;

Dầu hay mến thửa nghĩa nhân, ba phiến ngói yêu hơn lầu các.

Đệ Tam Hội

Nếu mà cốc[161]

Tội ắt đã không, phép học lại thông.

Gìn tính sáng mựa[162] lạc tà đạo;

Sửa mình học cho phải chính tông.

Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ[163]

Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng Công[164].

Áng tư tài[165]tính sáng chẳng tham, há vì ở canh diều Yên Tử;

Răn thanh sắc niềm đành chẳng chuyển, lo chi ngồi am Sạn[166] non Đông.

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu[167] hết sức;

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả[168] uổng công;

Nguyện mong thân cận minh sự, quả bồ đề[169] một đêm mà chín;

Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưu đàm[170] mấy kiếp đơm bông.

Đệ Tứ Hội

Tin xem:

Miền cốc[171] một lòng,

Thời rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc[172] mới chứng tam thân[173];

Đoạn lục căn[174] nên trừ lục tặc[175]

Tìm đường hoán cốt, chỉn xá hay phục được luyện đan;

Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc[176]

Biết Chân như[177] tin Bát nhã[178] chớ còn tìm Phật tổ tây đông;

Chứng thực tướng[179] ngộ vô vi[180], nào nhọc hỏi kinh thiền nam bắc.

Xem Tam tạng[181], giáo, ắt học đòi thiền uyển thanh qui[182];

Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn chiên bặc[183].

Tích nhân nghĩa, tụ đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;[184]

Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực lòng là Di lặc[185].

Đệ Ngũ Hội

Vậy mới hay:

Bụt ở cung nhà[186], chẳng phải tìm xa.

Nhân khuy bản[187] nên ta tìm Bụt;

Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.

Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng[188] trong quê Hà Hữu[189].

Kinh xem ba bận, ngồi nghe với quốc Tân La[190]

Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan [191] đà đột lần trường kinh cửa Tổ;

Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.

Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyện cho thân cận;

Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đà xa[192].

Áo miễn[193] chăn đầm ấm qua mùa, hoặc kim hoặc chỉ;

Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dù bạc dù thoa[194].

Ngăn bát thức[195], nén bát phong[196] càng đè càng bội[197];

Rẽ tam huyền[198], nong tam yếu[199], một cắt một ma[200].

Cầm vốn thiếu huyền, sá đàn dấu xoang vô sinh khúc[201];

Địch nguyên chẳng lỗ, cũng phím chơi xướng thái bình ca[202].

Rẽ cỗi tìm cành, còn khá tiếc. Câu Chi trưởng lão[203];

Khuấy đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa[204].

Lột quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng[205];

Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da[206].

Đệ Lục Hội

Thực thay:

Hễ xá vô tâm,

Tự nhiên hợp đạo.

Dừng tam nghiệp[207] mới sáng thân tâm;

Đạt một lòng thời thông tổ giáo,

Nhận văn giải nghĩa, lạc loài nên thiền khách bơ vơ;

Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo[208]

Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, thược sàng[209];

Hỏi đại thừa, hỏi tiểu thừa, thưa thảng tắt: lòi tiền, tơ gáo[210].

Nhận biết lầu lầu lòng bản, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên[211];

Chùi cho vằng vặc tính gương, nào có nhiễm căn trần huyên náo.

Vàng chửa hết quặng, xá tua chín phen đúc, chín phen rèn;

Lộc chẳng còn tham, miễn được một thời chay, một thời cháo.

Sạch giới lòng, chùi giới tướng[212] nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm;

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.

Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;

Học đạo thờ thầy, dọi xương óc chửa thông của báo[213]

Đệ Thất Hội

Vậy mới hay:

Phép Bụt trọng thay,

Rèn mới cốc hay.

Vô minh hết, bồ đề thêm sáng;

Phiền não rồi, đạo đức càng say.

Xem phỏng lòng kinh, lời Bụt thuyết dễ cho thấy dấu;

Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn xét biết hay[214].

Cùng căn bản, tả trần duyên, mà để mỗ hào ly dương mắt[215];

Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chửa cho còn họa giữ cong tay[216].

Vung lửa giác ngộ, đốt hoại bỏ rừng tà ngày trước;

Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tính thức thủa nay[217]

Vâng ơn thánh, lọt mẹ cha[218], thờ thầy học đạo;

Mến đức Cồ[219], kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.

Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyện cho thân cận;

Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay.

Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo;

Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ coi chửa hết ngay[220]

Đệ bát Hội

Chưng ấy:

Chỉn xá tua rèn[221],

Chớ nên tuyệt học.

Lơi ý thức chớ chấp trừng trừng[222];

Nén niềm vọng mà còn xông xốc[223].

Công danh màng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.

Dựng cầu đò, xây chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;

Cương hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc[224].

Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức dùi mài;

Đãi cát thấy vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc

Xem kinh đọc lục[225], làm cho bằng thửa thấy thửa hay;

Trọng Bụt tu thân, dụng mà lỗi một tơ một tóc[226].

Cũng nơi ngôn cú[227], chỉn chẳng hề một phút ngại lo;

Lật thửa cơ quan[228], mà còn để tăm hơi dột lọc[229].

Đệ Cửu Hội

Vậy cho hay:

Cơ quan tổ giáo,

Tuy khác nhiều đường,

Chẳng cách mấy gang[230].

Chỉn xá nói tự sau Mã Tổ;

Ắt đã quên thửa trước Tiêu Hoàng[231].

Công đức toàn vô, tính chấp si, càng thêm lỗi;

Khuếch nhiên bất thức, nghe ngu mắng, ắt còn vang[232].

Sinh Thiên trúc, chết Thiếu lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ[233];

Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang[234].

Vương lão chém mèo, lại lẫy lòng ngừa thủ tọa[235];

Thầy Hồ xua chó, trỏ xem trí nhẹ côn sàng[236].

Chợ Lư Lăng, gạo mát quá ư, chẳng cho mà cả[237];

Sở Thạch đầu, đá trơn hết sức, khôn đến thừa đương[238].

Phả táo cất cờ[239], đạp xuống dấu linh thần vật;

Câu Chi dời ngón, dùng đôi dép cũ ông ang [240]

Lưỡi gươm Lâm Tế , nạng Bí ma[241], trước nạp Tăng no dầu tự tại;

Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt lượm xá nghênh ngang[242]

Giơ phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẫn[243]

Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang[244].

Thuyền tử gia chèo dòng xanh, chửa cho tiễn tẩy[245];

Đạo Ngô múa hốt càn ma, hoang thấy quái quàng[246].

Rồng Yển lão[247] nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ;

Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giương.

Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái bạch;

Bính đinh thuộc hỏa, lại lỡ sau lỗi hướng thiên cương[248].

Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương[249], bầy thiền tử hãy còn đói khát;

Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu thất, chúng nạp Tăng những để lưu hoang[250]

Gieo  bó củi,[251] nảy bông đèn, nhân mang mới nát;

Đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.

Đệ Thập Hội

Tượng chúng ấy:

Cốc một chân không,

Dụng đòi căn khí.

Nhân lòng ta vướng chấp không thông;

Há cơ tổ nay còn thừa bí[252].

Chúng tiểu thửa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành;

Đấng thượng sĩ, chứng thực mà nên, ai chia có sơn lâm thành thị[253].

Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dât sĩ tiêu dao;

Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí.

Ngựa cao tán cả, diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;

Gác ngọc lầu vàng, ngục tối thiểu chi người yêu quí[254].

Chẳng công danh, luông[255] nhân ngã, thực ấy phàm ngu;

Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.

Mày ngang, mũi dọc, tướng tuy lạ, xem ắt bằng nhiều;

Mặt thánh, lòng phàm, thực cách nhẫn muôn muôn thiên lý[256].

Kệ Vân[257]

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc san hề, khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền. (*)

(Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên,

đói cứ ăn no, mệt ngủ yên.

Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm.

Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền) (Huệ Chi dịch)

(*) Bản phiên âm và chú thích dẫn theo sách Hợp Tuyển Thơ Văn Việt nam, thế kỷ X – thế kỷ XVII.

 


[131] “Vua Anh Tông thấy thượng hoàng tu khổ hạnh, trèo đèo leo núi vất vả, trong lòng không yên, thường kiếm cớ ngăn trở, nhưng ngài cương quyết không bỏ.

Tháng 8 năm Hưng Long thứ 9 (1301) Anh Tông sai ngự sử Đoàn Nhữ Hài lên núi Yên Tử đón thượng hoàng về Tức Mặc dự lễ giỗ đầu đức Hưng Đạo Đại Vương. Giỗ xong, vua tâu xin ngài đi chơi nước Chiêm Thành xem chỗ Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh và phong cảnh nước Chiêm. Ngài bằng lòng.

Tương truyền: “Cách đây khoảng 1.200 năm, đời vua Thuận Đế nhà Đông Hán, Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh làm con gái vua Trang Vương nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), di tích còn lưu lại ở thành Phật Thệ.

Tháng 9 năm ấy, vua sai nhân huệ vương Trần Khánh Dư, ngự sử trung tán Đoàn Nhữ Hài, tướng quân Phạm Ngũ Lão đem ba nghìn quân ngự lâm hộ giá thượng hoàng sang du ngoạn nước Chiêm. Vua Chiêm Thành Chế mân tiếp được sắc thư vua ta, sai các quan văn võ đưa binh sĩ nghi tượng ra giáp giới đón. Còn vua Chiêm thân đón ở thành Phật Thệ. Thượng hoàng đi gần hai tháng đến thành Trà Kiệu, vua Chiêm nghinh tiếp hết sức cung kính tôn nghiêm.

Hơn hai tháng ở nước Chiêm, thượng hoàng đi xem khắp mọi chùa chiền, nơi cổ tích Phật Nam Hải Quán Âm, các tháp cổ và phong cảnh kinh đô. Ngài đi từ Trà Kiệu tới Trà Bàn, qua xem tháp Mỹ Sơn, tháp Chùa, tháp Chợ và khảo cứu Phật tích suốt 72 tháp Đông Dương.

Thành Đồ Bàn dựng từ thế kỷ thứ 9, chu vi tám dặm, ra vào có 9 cửa, chung quanh xây bao thành gạch. Ở trong có những cung điện hùng vĩ đều quay mặt hướng Nam. Lại có tám ngôi chùa rất lớn và những tháp cao chót vót. Chùa chính có tượng Đức Phật Nam Hải Quán Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng Văn Thù cưỡi sư tử xanh, tượng Phổ Hiền cưỡi voi trắng tạc bằng đá quý. Phía sau kinh thành có sông bao bọc chảy thông ra biển.

Khi thượng hoàng từ biệt Chiêm Thành, cảm lòng người Chiêm tiếp đón long trọng, ngài hứa gả công chúa Huyền Trân là con gái út cho Chế Mân để tình ban giao hai nước thêm bền hặt. Chế Mân lạy tạ cảm ơn, sai các quan đi tiễn đến tận biên giới.” (Sự Tích Trúc Lâm Tam Tổ, Đỗ Trọng Huề, Tạp chí vạn Hạnh số 19, 20).

[132] Trong kinh “Những Điều Phật Dạy”, nguyên bản chữ Hán: Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh.

Điều thứ ba.

Đức Phật dạy rằng: Chúng sinh có mười (10) việc Thiện và mười (10) việc ác. Những gì là mười? Đó là: Ba thuộc về Thân, bốn thuộc về khẩu, ba thuộc về ý.

Ba việc thuộc về thân là: giết hại, trộm cắp, tà dâm.

Bốn việc thuộc về khẩu là: nói lời chia rẽ, nói độc ác, nói giận dữ, nói thêu dệt.

Ba việc thuộc về ý là: Tham lam, giận dữ, si mê.

Mười việc làm ấy không thuận theo thánh đạo nên gọi là ác.

Mười việc làm ấy chấm dứt, gọi là Thiện.

[133] Tám chữ: “Sinh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc”

(Sinh và diệt đã chấm dứt, đó là sự vắng lặng an vui của Niết Bàn).

Kinh Đại Niết Bàn, phẩm Thanh Hạnh, dẫn tích Bồ Tát Tuyết Sơn hy sinh tính mạng cho quỷ la Sát ăn thịt để xin được gnhe hai câu sau của bài kệ, tức hai câu “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”.

Trong bộ Thủy Lục Toàn Khoa có câu “Trượng bán ngôn nhi tam chướng tiêu trừ, bằng tứ cú nhi lục trần thanh tịnh”. Dưới đây là toàn bài kệ (4 câu):

“Chư hành vô thường

Thị sinh diệt pháp

Sinh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc”.

[134] Sách Tam Tổ Thực Lục chép: “Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật Pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức huệ võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều Ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục (1) một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo Hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ thứ hai phái Trúc Lâm” (dẫn theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Tập I, trang 342, 343).

Sách Tam Tổ Thực Lục chép: “Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật Pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức huệ võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều Ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục (1) một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo Hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ thứ hai phái Trúc Lâm” (dẫn theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Tập I, trang 342, 343).

[135] Giác Hoàng tịch cùng một ngày với Công chúa Thiên Thụy.

[136] Tháp chùa Phổ Minh xây năm 1310 theo lệnh của vua Trần Anh Tông (1293 – 1314) để chứa một phần tro xương của Trần Nhân Tông.

Tháp này rất đáng được nghiên cứu về phương diện kiến trúc và về mục đích của kiến trúc tôn giáo, vì đó là tháp duy nhất tại Việt Nam được xây cất để chứa tro xương của một vị đế vương. Chắc là vì khi Thượng hoàng Nhân Tông băng thì vì ngài không là vua nữa mà chỉ là một tu sĩ nên mới dựng tháp của Phật giáo để làm lăng một vị vua.

[137] Nghiêm Thẩm, Tháp Chùa Phổ Minh, Vạn Hạnh số đặc biệt về thành đạo và xuân đinh vị – 1967.

[138] Cư Trần Lạc Đạo Phú: bài phú về cảnh sống ở cõi bụi mà vẫn vui vì lẽ đạo. Bài phú này được lưu hành ở nhà chùa và trải qua nhiều lần sao đi in lại, chắc là không còn giữ được đúng nguyên bản đời Trần.

Trong bản in năm Bảo Đại thứ bảy (1932), bài phú này để liền sau bài Thiền Tông Bản Hạnh.

[139] Thập Hội Dụng Diễn ra quốc Ngữ Phú: bài phú gồm mười đoạn, dùng tiếng nước nhà diễn thành lời ca.

[140] Nết Dụng Sơn Lâm: dụng là công dụng, tác dụng; nết dụng sơn lâm nghĩa là tính nết như là chịu tác dụng của cảnh an tĩnh của núi rừng.

[141] Nghiệp: từ ngữ trong Phật học, chỉ nguyên nhân tạo nên thiện và ác.

[142] Thể tính: thể là thân thể, tính là tinh thần bản nhiên vốn có.

[143] Thân tâm: thân là thân thể, tâm là tinh thần.

[144] Năng mấy chủ tri âm: có được mấy người làm chủ cảnh đẹp đào hồng, liễu lục mà hiểu được cảnh đẹp ấy.

[145] Lỗ Thiên Hà: lỗ (bây giờ có địa phương còn đọc là lỗ) là âm cổ của chỗ, thiên hà là sông Thiền, sông nhà Phật; lỗ thiên hà là cõi nhà Phật.

[146] Tuệ Phật: mặt trời trí tuệ (của phật), sâm lâm không có nghĩa rập rạp như rừng (nghĩa Hán tự) mà có nghĩa là nhiều lắm ở khắp nơi (nghĩa nôm)

[147] Lừa Hoán Cốt: lừa hoặc lựa có nghĩa là cố gắng sắp xếp, tìm mọi cách; hoán cốt, đổi xương, là phép của Đạo gia tìm cách đổi xương thịt nặng nề của người đời thành cốt cách trong nhẹ của tiên để có thể phi thăng, bay lên cao vào cõi tiên.

[148] Đan Thần: thuốc thiêng của thần linh, thuốc tiên Phục là uống thuốc.

[149] Nhắm Trường Sinh:  nhằm theo mục đích được vào cõi trường sinh. Thuốc quí: quí ở đây có nghĩa là thần linh như ở trong danh từ quỉ thần. Thuốc quí cũng có nghĩa như đan thần.

[150] Nơ: tiếng cổ, có nghĩa là bằng, là.

[151] Võng, Thác: đều có nghĩa là bậy bạ sai lầm. Cả câu này có ý nói tìm cách kiềm chế sự lầm lẫn thì tất là bớt được sự lầm lẫn.

[152] Dứt trừ Nhân Ngã: trừ bỏ được sự phân biệt, kỳ thị giữa người khác với bản thân mình.

[153] Kim Cương: chất cứng rắn nhất, tượng trưng cho bản lĩnh vững chắc của kẻ tu hành đắc đạo; Nhà Phật có kinh Kim Cương. Tướng thực có nghĩa là sự biểu hiện (tướng) chân thực (của bản lĩnh kim cương).

[154] Tham, Sân: tham lam và giận dữ.

[155] Làu: tiếng cổ có nghĩa là thông suốt (ta còn nói thuộc làu làu, thuộc lau lảu); lòng mầu là tấm lòng thấu suốt lẽ mầu nhiệm của đạo; viên giác là sự giác ngộ đầy đủ trọn vẹn.

[156] Tịnh Thồ (Cũng đọc là Tịnh Độ): đất thanh sạch, chỉ cõi Phật, Tây phương; chỉ cõi Phật, theo Tịnh độ tông thì Phật quá khứ là Phật A Di Đà ở cõi Tây phương cực lạc.

[157] Mựa: tiếng cổ, có nghĩa là chớ nên, đừng. Cả câu này có nghĩa là kẻ tu hành chân chính chẳng cần phải truy cầu Tĩnh thổ, Tây phương, A Di Đà, Cực Lạc ở đâu cả, mà tìm lẽ đạo ở trong tấm lòng trong sạch của mình, ỡ trong trí tuệ trong sáng của mình.

[158] Cầm Giới Hạnh: giới là điều răn giới, giới luật của nhà chùa; hạnh là đạo đức kẻ tu hành, giữ gìn theo đúng giới luật của nhà chùa và đạo đức của kẻ tu hành. Địch vô thường: chống lại cái vô thường tức là mọi sự ảo hóa khôn lường của pháp tướng, của các hiện tượng trong trần thế, giữ được sự an nhiên tự tại của tâm, của bản ngã, của Phật tính vốn có trong mọi người. Bán giác: nửa hào, ý nói món tiền rất nhỏ. Nào có sá cầu danh bán giác: nào có cầu đi tìm danh vọng một chút nào đâu.

[159] Vận Giẻ Vận Xui: đồ mặc, quần áo thì dùng giẻ, vải xấu, hoặc vỏ cây xui, ý nói giản dị, thô sơ.

[160] Nớ: Xem lời chú số 13.

[161] Cốc: hoặc đọc là cộc, tiếng cổ có nghĩa là hiểu biết

[162] Mở: xem lời chú số 20.

[163] Mã Tổ Một Vị Tổ Của thiền Tông, họ Mã, pháp danh là Đạo Nhất, đệ tử của thiền sư Hoàn Nhượng ở Tào Khê (Thiều châu), sống vào đời Đường. Cơ là then máy. Cả vế này ý nói cứ tu dưỡng lòng mình thì khắc có Phật tính ở trong, há phải đi tìm phép tắc, then máy của Mã Tổ.

[164] Bàng Công: tức cư sĩ Bàng Uẩn, học trò Mã Tổ. Khi giác ngộ rồi, ông đem khuân hết của cải quẳng xuống hồ Động Đình. Cả vế câu này ý nói cứ tu dưỡng nghiêm chỉnh ắt là thoát được sự ràng buộc của tài sản (vọng tài) xua đuổi được mọi ham muốn vật chất, hình sắc (đuổi sắc) chẳng cần phải có hành động quyết liệt đem tài sản quẳng xuống hồ như Bàng Công.

[165] Áng Tư Tài: áng là tiếng cổ, có nghĩa là đám, chốn đông. Áng tư tài là của cải, tài sản.

[166] Am Sạn: am bắc bằng sàn gỗ thô sơ (sạn là sàn gỗ)

[167] Yêu: tiếng cổ, có nghĩa là quí báu.

[168] Cả: lớn, rất.

[169] Bồ Đề: giác ngộ.

[170] Ưu Đàm: một thứ cây thuộc loài cây sung, có quả mà không có hoa. Hoa ưu đàm được kinh Phật dùng để gọi cái gì quí hiếm. Khi hoa ấy mà nở thì phúc to lắm.

[171] Cốc: xem chú số 24.

[172] Tam Độc: Ba cái độc là tham, sân, si (tham lam, giận dữ, ngu muội).

[173] Tam Thân: ba thân của Phật, một là pháp thân tức chân thân, hia là báo thân tức trí, ba là ứng thân tức hành.

[174] Lục Căn: sáu cái rễ khiến người đời bám vào trần tục; đó là nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỵ căn (mũi) thiệt căn (lưỡi), thân căn (mình), ý căn (ý thức). Đoạn lục căn: chặt đức sáu cái rễ ấy.

[175] Lục tặc: sáu tên giặc làm hại người ta. Lục tặc là do lục căn mà sinh ra: do nhãn căn mà có sắc, do nhĩ căn mà có thanh, do tỵ căn mà có hương, do thiệt căn mà có vị, do thân căn mà có xúc, do ý căn mà có pháp làm cho người ta bị chìm đắm

[176] Chân Không: hoàn toàn không có gì, ý nói vượt ra ngoài sắc tướng và ý thức. Có tuệ quang chiếu thấu mọi sắc, mọi tướng (hình dáng) giả dối, ảo hóa, và thấy tất cả đều là không. Ngại thanh: vướng vào thanh, chấp sắc: bám lấy sắc.ù

[177] Chân Như: thực thể, thực tính không bao giờ thay đổi, vượt lên trên sự biến hoá vô thường của sắc tướng, của hiện tượng.

[178] Bát Nhã: trí tuệ.

[179] Thực Tướng: thực tính, thực thể của vũ trụ, tức chân như.

[180] Vô Vi: theo nghĩa nhà Phật, thì vô vi là chân lý. Chân lý không phải do nhân duyên tạo ra cho nên gọi là vô vi.

[181] Tam Tạng: Ba kho kinh điển của Phật giáo là kinh tạng, luật tạng, luận tạng.

[182] Thanh qui: qui chế của nhà chùa.

[183] Chiên Đàn hay đàn hương là loại cây gỗ thơm rất quí, chiêm bặc là giống cây ở Tây vực, hoa rất thơm.

[184] Thích Ca: tức Phật hiện tại, là thủy tổ của Phật giáo, người Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch kỷ nguyên.

[185] Di  Lặc: tên một vị Bồ tát, tức là Phật vị lai.

[186] Cung nhà: vua Trần tu ở ngay trong cung

[187] Khuy Bản: thiếu gốc.

[188] Nằm Nhãng: nằm khễnh lơ đãng, nằm mà quên nhãng đi.

[189] Quê Hà Hữu: Hà hữu hương, chữ trong sách Trang Tử, nghĩa là “quê có đâu”, tức là một cõi vu vơ không có thực. Ở đây ý nói nằm trong cõi đời vốn chỉ là ảo hóa, không có thực.

[190] Tân La: tên một nước cổ ở bán đảo Triều Tiên, bị diệt vào cuối đời Đường. Có ý nói một nước không còn nữa.

[191] Khoáng cơ quan: then máy lỏng rộng, ý nói không câu nệ, gò bó

[192] Bô: là bỏ trốn, chểnh mảng bô việc là bỏ trốn công việc. Cả vế này có ý nói chính sách của nhà vua rộng rãi, dân có thể trút bỏ mọi ràng buộc trốn bỏ việc đời, mà đi theo Đạo Phật.

[193] Miễn: cũng như lẫn, có nghĩa như là với.

[194] Thoa:  cũng như thô, hẫm.

[195] Bát Thức: tám điều biết. Đó là nhãn thức (biết bằng mắt), nhĩ thức (biết bằng tai), tỵ thức (biết bằng mũi), thiệt thức (biết bằng lưỡi), thân thức (biết bằng thân mình), ý thức (biết bằng ý), mạt na thức (biết bằng sự suy lường), a lại da thức (biết bằng tâm thức).

[196] Bát Phong: tám gió, chỉ tám thứ có thể lay động lòng người như gió vậy; đó là lợi, suy, hủy (hủy báng), dự (vinh dự), xưng (khen), cơ (chê), khổ, lạc.

[197] Càng Đè Càng Bội: càng đè xuống càng tăng lên, nở ra. Ý nói bát thức, bát phong nếu dùng cách khiên cưỡng, gò bó, đè nén thì không thể trừ bỏ được, mà phải thoải mái, an nhiên thì mới khắc phục được.

[198]

[199]

[200] Tam Huyền Và Tam Yếu: tam huyền là ba điều sâu kín. Đó là huyền ở tron thể, huyền ở trong câu và huyền ở trong huyền, tất cả gọi là tam huyền môn. Mỗi huyền lại gồm tam yếu lý (ba điều chủ yếu), là lý, trí và phương tiện. Cả vế này nghĩa là: chia rành rọt ra làm tam huyền, trong mỗi huyền lại lấy tam yếu làm nòng cốt. Cắt là gọt tỉ, ma là mài giũa.

[201] Đàn Sách: sách, tiếng cổ có nghĩa là rong chơi, chơi dỡn (Ngày nay ta còn nói, hút sách, rướt sách); đàn sách là gảy đàn chơi. Xoang là khúc nhạc. Phật giáo nêu nghĩa vô sinh vô diệt. Vô sinh khúc là khúc nhạc của nhà chùa. Nhà chùa có câu kệ: “Vô duyên cầm thương tấu dương xuân, thiên cổ vạn cổ thánh bất tuyệt” (trên đàn không có giây đánh khúc nhạc xuân đầm ấm, nghìn năm vạn năm tiếng không dứt).

[202] Phím: thổi sáo, thổi địch. Nhà chùa có câu kệ: “Tranh tự nhất chi vô không địch, vi quân suy khởi thái bình ca” (sao giống một cây sáo khổng lồ, vì người thổi lên khúc ca thái bình).

[203] Câu Chi Trưởng lão: tức là hòa thượng Câu Chi, đời Đường, tu ở núi Kim Hoa. Một lần hòa thượng Câu Chi có điều chưa hiểu đem ra hỏi hòa thượng Thiền Long. Thiền Long giơ một ngón tay để bảo, Câu Chi bèn giác ngộ. Câu Chi thường nói: ta được phép Thiền ở đầu ngón tay của Thiền Long, ăn suốt đời không hết. Và hễ có đệ tử đến tham Thiền, Câu Chi chỉ giơ một ngón tay ra, không nói gì cả.

[204] Diễn Nhã Đạt ma: tức Yajedatta. Theo kinh Lăng Nghiêm thì đây là một nhân vật trong một truyện do Phật tổ kể ra để thuyết pháp. Diễn Nhã Đạt Đa lấy gương soi mặt, thì mặt mày có thể thấy, quay đầu đi thì bóng trong gương chớp đi không thấy nữa, cho là ma quỉ, sợ quá bỏ chạy.

[205] ,69) Khuyên Kim Cương, Bồng lật Cức: Thiền sư Dương Kỳ có hai câu kệ rằng:

thấu đắc kim cương khuyên

thôn đắc lật cức bồng

Nghĩa là:

Lọt được cái lỗ khuyên kim cương

Nuốt được quả gai lật cứ .

Dù nói khi đã giác ngộ lẽ đạo thì có thể bao quát vũ trụ, vạn vật trong khóe mắt của mình, lọt được qua cái lỗ nhỏ của vành khuyên bằng kim cương, có thể thông suốt mọi việc không còn gì vướng mắc, dầu có nuốt quả cức có gai góc tua tủa thì cũng trơn tuột không làm xước được da của mình. Tượng da: có lẽ ý nói da dầy như da voi, không có thể bị cào xước.

[206]

[207] Tam nghiệp: gồm có nghiệp về thân, nghiệp vầ miệng, nghiệp về ý. Xem thêm lời chú số 4.

[208] Ý nói Câu Nệ Về Văn Về nghĩa Trong Kinh Điển thì chẳng qua chỉ làm cho kẻ thiền khách thêm bơ vơ lạc loài (Thiền khách là người cư sĩ tin theo Đạo Phật, tuy chưa đi tu). Còn nếu biết giác ngộ cái lý sâu xa của đạo, hiểu thấu cái then máy huyền vi của đạo thì mới có thể trở thành người tu hành (nạp Tăng, nhà sư) đắc đạo.

[209] Thược Là Cái Gáo Múc Chất Lỏng, Sàng Là Dụng Cụ Để Phân Tách Những Hạt To Nhỏ. Lậu Là Thấm Nước, Thiền sư Lệnh Tuân đến gặp Tăng Đại Thông. Tăng hỏi: “Đại thừa là thế nào?. Đáp: “Là cái dây kéo ở giếng”. Hỏi: “Tiểu thừa là thế nào?. Đáp: “Là cái dây sắt”. Hỏi: “Hữu lậu là thế nào?”. Đáp: “Là cái sàng, cái rây”. Hỏi: “Vô lậu là thế nào?”. Đáp: “Là cái mộc thược, cái gáo gỗ”. The lọt: chưa hiểu nghĩa. Hoặc giả the có nghĩa như là kín chăng?. Ngày nay ta còn nói hàn the. Nếu hiểu hàn the là kín thì đối với lọt. Và cả câu có nghĩa như sau: “Hỏi thế nào là hữu lậu, hỏi thế nào là vô lậu, đáp rằng vô lậu là kín như cái múc nước, hữu lậu là cái khe lọt như cái sàng, cái rây”.

[210] Tơ Gạo: ngờ là day gáo viết sai. Chuổi tiền, dây gáo là những thứ dây để xâu chuỗi, hoặc để buộc. Xem lời chú số 72.

[211] Ý Nói Hiểu Thông Được Cái Bản Chất cái gốc của tâm thì có sợ gì mọi sự thay đổi (thời tiết) mọi sự ràng buộc (nhân duyên) thoát được cõi tục.

[212] Giữ Gìn Tấm Lòng Cho Trong Sạch, chùi cho hết mọi vết của sắc tướng (hiện tượng ở thế gian huyễn hoặc người ta).

[213] Ý Nói Học Thầy Chịu Ơn Nặng, dầu có dọt vỡ xương, óc của mình để tri ân cũng chưa đủ báo đáp.

[214] Sá: kinh lạ, lấy làm sự kỳ dị, lạ lùng. Cơ là cơ hội may mắn trong đó chúng sinh có thể gặp nhân duyên mà giác ngộ. Cơ tổ: then máy đạo lý của tổ sư, cả câu này ý nói xem trong kinh điển sách vở thì dễ thấy được lý thuyết của Phật giáo, nhưng học đòi để được dịp may mắn mà giác ngộ theo đạo lý của tổ sư thì phép tin kỳ lạ của đạo Thiền khó mới cứu xét được.

[215] Cùng Căn Bản: là đi cho đến chỗ tận cùng của gốc rễ, tả trần duyên là từ bỏ mọi sợi dây ràng buộc với cõi đời bụi, mỗ hào ly là chẳng một chút, một tí nào; dương mặt là mang ở trên mặt.

[216] Ngã Thắng Tràng: (tràng là một thứ cờ phướn của nhà Phật) ngọn cờ chiến thắng của bản ngã. Viên tri kiến: hiểu biết trọn vẹn đầy đủ. Họa giữa trong tay, ngờ là: họa giữ trong tay mà bản nôm đã in sai

[217] Tỉnh Thức: thức là những hiểu biết ràng buộc mình với cõi trần tục (xem lời chú số 58). Tỉnh thức là những hiểu biết vốn có từ bản tính của người đời.

[218] Lọt Mẹ Cha: lọt ra đời từ lòng mẹ cha ý nói chịu ơn sinh đẻ của mẹ cha.

[219] Miễn Đức Cồ: (cồ, tiếng cổ, có nghĩa là lớn), cố gắng noi theo đức lớn.

[220] Ý Nói: nếu ngoài miệng nói rằng tin mà trong lòng lại phạm lỗi thì trong việc thờ cúng dẫu cho có dùng đến vàng ngọc đi nữa cũng chẳng phải là thành tâm.

[221] Tua: tiếng cổ nghĩa là nên.chỉn Xá Tua Rèn, chỉ có thể nên gắng rèn luyện.

[222] Lơi Ý Thức Chớ Chấp Trừng trừng, phải để cho ý thức được lơi, được rộng rãi thoải mái, chớ câu chấp gò bó cái gì cả.

[223] Nén Niềm Võng Mà Còn Xong Xóc: nếu chỉ thô bạo mà nén xuống thì niềm võng (tức cái sai trái) lại cứ nổi lên như xong xóc.

[224] Cả Câu Ý Nói: bên ngoài thì phải giữ gìn trang nghiêm những nghi thức thuộc về bề mặt (sự tướng), nhưng bên trong thì lại phải rèn luyện tấm lòng đạo.

[225] Lục: sách ghi chép sự tích nhà chùa và các vị tổ sư của đạo Thiền.

[226] Dụng Mà Lỗi Một Tơ Một Tóc: dụng công chớ để sai trái một chút gì.

[227] Cùng Nơi Ngôn Cú: xét suy đến cùng các lời nói.

[228] Lật Thửa Cơ Quan: lật đi lật lại mọi then máy, mọi phép tắc của thiền môn.

[229] Chớ: để sơ hở một chút gì.

[230] Ý Nói: Đạo Phật nếu truy nguyên đến các dòng phái, các phép tu, các vị tổ, thì thấy có nhiều và thấy xa xôi, nhưng nên hiểu rằng Phật tại tâm thì lại rất ngắn.

[231] Mã Tổ: xem lời chú số 26. Tiêu Hoàng tức Hoàng đế nhà Lương tên Tiêu Diễn, miếu hiệu là Lương Vũ Đế. Tiêu Hoàng rất chuộng Đạo Phật. Chính vào thời kỳ này Bồ Đề Đạt Ma ở Ấn Độ sang Trung Hoa lập nên dòng Thiền tông ở đây.

[232] Công Đức Toàn Vô: nghe ngu mắng ắt còn vang:Tiêu Diễn Mời Bồ Đề Đạt Ma đến và hỏi:”Từ khi trẫm lên ngôi, dựng chùa chép kinh, có thể có công đức gì không:” Đáp: Chẳng có công đức gì cả”. Hỏi:  “Vậy chân công đức là cái gì?. Đáp: “Tĩnh tri diệu viên thì thể tự không lặng, công đức mà như thế thì không thể lấy việc đời mà cân được”. Hỏi: “Đệ nhất nghĩa của thánh đế là như thế nào?” Đáp: “Khoách thiên bất thức”. Vua nghe thế mắng là ngu.

[233] Bồ Đề Đạt Ma sinh ở Thiên Trúc (tức Ấn Độ), sang Trung Hoa và viên tịch ở chùa Thiếu Lâm, phía bắc núi Thiếu Thất, chôn ở chân núi Hùng Nhĩ.

[234] Bài Giơ Mặt Vách Hành Lang: Bồ Đề Đạt Ma tu ở chùa Thiếu Lâm, suốt ngày thiền định, mặt quay vào vách, như thế trong chín năm, cho đến lúc chết. Ở chùa Thiếu Lâm cón có Điện Bích Am (cái Am nơi Ngài quay mặt vào vách). Bài giơ: tấm biển trỏ (nơi Ngài quay mặt vào vách).

[235] Lạt Lẫy: tiếng cổ, chưa rõ nghĩa lắm. Có lẽ có nghĩa là dùng thủ đoạn khéo léo (lấy tay lẩy). Thủ tọa là người trông nom Tăng xá, chỗ sư ở. Vương lão sư tức thiền sư Phổ Nguyện, học Vương, truyền đạo ở Nam Tuyền. Một hôm, hai người thủ tọa nhà phía đông và phía tây tranh nhau một con mèo, Vương lão bèn cầm con mèo giơ lên và bảo: “ai biết được con mèo là của bên nào thì cứu được con mèo, nếu không thì chém bỏ. Mọi người không ai trả lời được. Vương lão sư bèn chém chết con mèo. Có người giải thích việc sát sinh có vẻ trái với tôn chỉ nhà chùa ấy như sau: Vương lão sư đã có phép thần thông, hiểu rõ lẽ vô sinh, chắc có cách chiêu hồn. Làm như vậy một là để cho hồn mèo thoát hóa, hia là khéo léo giải quyết được sự phân tranh giữa hai người thủ tọa.

[236] Côn Sàng: chưa rõ nghĩa, có thể là một từ cổ, có thể là khắc sai ở bản in. Thầy Hồ là thiền sư Lợi Tung ở Tử Hồ Nham. Ở dưới cửa chùa có dựng tấm biển đề rằng: Tử Hồ có một con chó, trên thì lấy đầu người, giữa thì lấy tâm người, dưới thì lấy chân người. Ai mà dị nghị tức là bỏ thân mất mạng. Có thầy tăng đến tham thiền, vừa vén rèm định vào thì thiền sư quát: “Xem chó”. Có người hỏi chó Tử Hồ ở đâu, Thiền sư nói: “Gâu! Gâu!. Đây là cách mà các nhà sư theo Thiền tông thường làm để thức tỉnh và giác ngộ đệ tử.

[237] Gạo Mạt: gạo tồi, kém. Thiền sư Nguyệt Luân một hôm đến yết kiến hòa thượng Giáp Sơn. Giáp Sơn hỏi: “Ngươi xứ nào?”. Nguyệt luân đáp: “Ở Mân Trung. Hỏi: “Có biết lão tăng không?”. Nguyệt Luân hỏi lại: “Có biết kẻ học trò không?”. Giáp Sơn nói: “Không biết thì người trả tiền giày cỏ cho lão Tăng, rồi sau lão Tăng sẽ trả giá gạo Lư Lăng cho người”. Nguyệt Luận nói: “Như thế thì chẳng biết, hòa thượng cũng chưa hiểu giá gạo chợ Lư Lăng là bao nhiêu”. Giáp Sơn khen và truyền pháp ấn cho, đọc câu kệ rằng: “Nói thế quả là người anh linh. Đem hết gốc rễ tiếp hữu tình. Mới hỏi đến giá gạo chơ Lư Lăng. Toàn nhiên chẳng chút qua lộ trình”. Ý muốn nói Phật pháp là vô giá, như giá gạo chợ, nói bao nhiêu trả bấy nhiêu, không được mặc cả.

[238] Thừa Đương: nhận gánh vác. Thạch Đầu là chỗ dãi đá ở phía nam núi Hành Sơn, phía đông chùa nơi thiền sư Hy Thiên đời Đường tu hành. Hy Thiên có biệt hiệu là hòa thượng Thạch Đầu.

[239] Phá Tác: Đập Bếp, Hòa thượng Phổ Trúc ở núi Tung Sơn. Trong núi có miếu thiêng. Người xa gần đem bò lợn đến bếp trong miếu để mổ và tế thần. Một hôm Phổ Trác đến miếu, vào bếp mằng rằng: bếp là do bùn đất mà nặn lên, sao lại nấu nướng giết hại sinh vật. Nói xong đập tan lò bếp. Lát sau có vị thần hiện ra vái lạy, thưa rằng: “Tôi là thần bếp, lâu ngày chịu nghiệp quả báo, may nhờ thiền sư tôi được thoát khỏi chốn này, nên đến để tạ ơn”. Cấp Cô: trưởng giả Cấp Cô Độc ở Thiên Trúc làm tháp thờ Phật, lại dựng cờ phướn hình sư tử, trâu, chim, rồng để cúng.

[240] Câu Chi Giơ Ngón: xem chú thích số 66. Ông ang, tức là ông ông, là sắc cũ kỹ. Sau khi gặp Bồ Đề Đạt Ma tịch đã ba năm. Chu Vân lại gặp ngài ở núi Thúy Linh, chỉ đi một chiếc giày, nói rằng ông ta đi về Tây Thiên. Chu Vân về Trung Hoa, tâu vua xin đào mộ Đạt Ma lên xem, thì chỉ thấy còn một chiếc giày cũ

[241] Lâm Tế: một phái của Thiền tông do Thiền sư Lâm Tế nghĩa Huyền lập ra. Lâm Tế Lục chép rằng: “Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền bảo các Tăng: “Có khi quát một tiếng là bảo kiếm của kim cương vương”. Trí tuệ bát nhã co thể khiến người ta dứt được mọi trần lụy cũng như lưỡi gươm chém đứt mọi xiềng xích. Bí Ma: tức hòa thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài sơn (Sơn Tây). Nhà sư thường cầm một cái nạng gỗ. Có Tăng đồ đến tham thiền thì sư đè nạng vào cổ và nói: “Ma quỉ nào bảo người xuất gia? Ma quỉ nào bảo ngươi hành cước? Nói được thì cũng nạng cho chết, không nói được thì cũng nạng cho chết. Nói mau! Nói mau! Không có ai trả lời được.

[242] Ông Đoan: tức Tây Dư Đoan sư tử ở An Cát châu. Lúc đầu nhà sư thấy chơi sư tử thì phát sinh được yếu chỉ về tâm. Sau khi yết kiến thiền sư Long Hoa về bèn làm một bộ lốt sư tử bằng chỉ màu, thường khoác lên người, do đó mà có danh hiệu. Đoan Sư Tử. Thầy Hựu: tức thiền sư Linh Hựu ở Qui Sơn (Hồ Nam). Theo truyền thuyết, nhà sư ba mươi năm chăn một con trâu. Lúc đầu trâu khó bảo, sau tuân phục dần vâng lời người bảo. Rồi lại có thể thả rong, không cần chăn dắt, sau cùng biến thành con trâu trắng rồi biến mất. Sự tích này sau được vẽ thành mười bức tranh, gọi là Thập Mục ngưu Đồ (mười bức tranh về trâu), biểu hiện quá trình người tu hành khắc phục được bản ngã (con trâu tượng trưng cho bản ngã). Đàn việt là tín đồ Phật giáo.

[243] Phiến Tử: cái quạt. Thiền sư Vân Môn thường cầm cái quạt. Có Tăng đồ đến tham thiền thì giơ quạt lên mà chỉ thị. Trúc bề: một thứ lược tre. Thiền sư Thứ Sơn một hôm trả lời kẻ tham thiền, giơ cái trúc bề lên và nói: “Gọi là cái gì? Gọi là trúc bề thì xúc phạm, không gọi là trúc bề thì sai trái. Gọi là cái gì?”

[244] Xô Hòn Cầu: Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong, Phúc Châu (Phúc Kiến) có thời làm phạn đầu ở Động Sơn. Một hôm, Tăng đồ họp, nhà sư xô ra một quả cầu bằng gỗ. Sư Huyển Sa bắt lấy để vào chỗ cũ. Thiền sư Nghĩa Tồn lên tòa, thuyết pháp rằng: “Ở Nam Sơn có một con rắn, các ngươi phải coi chừng”. Cẩm Mộc Thược: xem lời chú số 72. Chước móc: mưu chước, máy móc. Ý nói mọi qui tắc, qui chế của nhà chùa.

[245] Tiễn Tẩy: chưa rõ nghĩa. Có thể là một từ nôm cổ. Nếu theo nghĩa Hán tự thì có thể hiểu là tẩy rửa tràn trề. Hãy tồn nghi. Thuyền Tử Gia Chèo: Thuyền tử là biệt hiệu của Thiền sư Đức Thanh ở Hoa Đình, Tô Châu (Triết Giang) thường chèo một lá thuyền con, ngao du sông nước, tùy duyên qua ngày mà tiếp người bốn phương qua lại.

[246] Đạo Ngô: người đồng đạo của Đức Thành. Múa hốt càn ma: chưa hiểu rõ điển này.

[247] Rồng Yển Lão: Yển Lão là thiền sư Văn Yển ở Thiều Châu (Quảng Đông) thường nói: “Chăng lưới to khắp trời bắt rồng, chăng lưới nhỏ bắt tôm và hến. Thế thì ngao sò lạc vào chỗ nào?” Lại nói: “Cây gậy hóa làm con rồng, nuốt hết trời đất thì núi sông còn ở vào đâu nữa?” Rắn ông Tồn: Ông Tồn là thiền sư Nghĩa Tồn, xem lời chú số 107

[248] Thái Bạch: là tên mà đạo gia dùng để gọi sao Kim Tinh, còn Thiên Cương là tên mà Đạo gia dùng để gọi sao Bắc Đẩu. Chưa hiểu rõ điển tích ở đây.

[249] Triệu lão: tức là thiền sư Tùng Nẫm ở Quan Âm viện Triệu Châu, thường có lời: “Uống chè đi” để đáp lại những Tăng đồ đến tham thiền. Sau có bài kệ rằng: Triệu Châu có lời: “Uống chè đi”, các Tăng thiên hạ đều theo về. Bánh Thiều Dương: bánh của Thiều Dương lão nhân là biệt hiệu của thiền sư Văn Yển (xem lời chú số (110). Văn Yển theo thiền sư Chí Trừng. Một hôm Chí Trừng hỏi:” Minh Giáo ngày hôm nay ăn được mấy cái bánh đúc?” – Đáp: “mời hòa thượng vào uống chè”. Chí Trừng nói: “Ta không cung dưỡng Nam Tăng” (Ý nói không cung dưỡng Văn Yển là người Phùng Nam)

[250] Tào Khê: là tên con sông, nơi có chùa Bảo Lâm, Tuệ Năng tức Lục Tổ, người mở đầu Thiền tông phương Nam. Thiếu thất là tên núi, nơi có chùa Thiếu Lâm. Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ nhất của Thiền tông, tu ở đấy. Ruộng Tào Khê và vườn Thiếu Thất ở đây dùng để trỏ đạo Thiền.

[251] Gieo bó Củi: Tuyết Phong đến thăm thiền sư Ngộ Bản, gieo một bó củi trước mặt sư. Sư hỏi: Nặng bao lăm. Tuyết Phong nói: “Người khắp cả thiên hạ cũng không mang nổi”. Nảy bóng đèn: chưa rõ điển tích.Lộc đào hoa:Thiền sư Trí Cầu ở núi Linh Vân, Phúc Châu. Nhân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo. nghe tiếng trúc: Đại sư Hương nghiêm một hôm làm đất, ném hòn đá vào cây trúc có tiếng kêu, chợt giác ngộ lẽ đạo.

[252] Ý Nói: nếu hiểu được lẽ chân không thì kết quả đến căn khí; chỉ vì lòng ta còn vướng mắc câu chấp nên chưa thông hiểu lẽ đạo, chứ then máy của tổ sư có gì là bí mật.

[253] Ý Nói do mình chưa hiểu chứ Bụt nào có hẹp hòi với ai, do chứng thực (chứng thực tướng) mà trở nên thượng sĩ (tức Bồ tát), chứ việc ở sơn lâm hay ở thành thị há có phân biệt gì.

[254] Yêu: tiếng cổ, có nghĩa là quí trọng. Người yêu quí; người sang trọng. Ý nói: ở dưới địa ngục bọn lính gác ngục canh giữ thiếu gì người sang trọng ở trên đời gác ngọc lầu vàng mà phạm tội

[255] Luông: luông tuồng. Luông nhân ngã: luồng tuồng thanh nhân chấp ngã, tranh giành hơn thua với người khác.

[256] Ý Nói: bề ngoài có vẻ đạo đức cả (mặt thánh) mà bên trong thì tầm thường dung tục (lòng phàm), cách xa nhiều lắm..

[257] Nghĩa là: Ở cõi đời bụi, vui vẻ lẽ đạo cứ để tùy duyên. Đói thì ta ăn, mệt thì ta ngủ. Trong nhà có của báu, đừng tìm tòi ờ đâu đâu. Đứng trước cảnh mà vô tâm, tự khắc có Phật sao phải hỏi Thiền.

 

ĐỆ NHỊ TỔ TÔN GIẢ PHÁP LOA

(1284 – 1330)

Tôn giả tên là Đồng Kiên Cương, sinh ngày 7 tháng 5 Giáp Thân, niên hiệu Thiệu Bảo thứ VI (1284), quê làng Cửu La, huyện Chí Linh, lộ Lạng Giang (nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Cha  là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Tương truyền: Có lần mẹ ngài nằm mộng thấy một vị thần trao cho thanh bảo kiếm, bà vui vẻ nhận, sau đấy thì mang thai – Bà đã tám lần sinh con gái, nên lần mang thai ngài, bà dùng thuốc trụy thai, nhưng không công hiệu- Khi sinh ngài, người ta cảm thấy mùi thơm bay khắp nhà thì cho là điềm lạ. Cha mẹ lấy làm mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Ngài bẩm tính thông minh dĩnh ngộ, học một biết mười, tuy tuổi mới tròn hai mươi nhưng sức hiểu biết đã đạt tới đỉnh cao: không chỉ tinh thông Phật học mà cả Nho, Lão cũng rất am tường. Ngài từ nhỏ đến lớn không hề nói lời xấu ác, biết trọng đức hiếu sinh, tuyệt đối không dùng các thứ thịt cá. Gia đình vốn tin Phật từ nhiều đời nên, năm 21 tuổi, ngài ngỏ ý xin đi tu, được cha mẹ chấp thuận.

Niên hiệu Hưng Long XII (1304), Giác Hoàng và đoàn sứ giả du hành tới các nơi thôn dã để hoằng pháp, bố thí và khuyên dân phá bỏ những miếu thờ thần không chân chính, hướng tâm vào các việc phúc thiện, có ích lợi cho chính bản thân và cho xã hội… Đoàn sứ giả lúc tới huyện Nam Sách, ngài tìm đến yết kiến Giác Hoàng cầu xin được đi xuất gia. Giác Hoàng hoan hỷ chấp nhận, đặt tên là Thiện Lai, và dạy: “Kẻ này có tuệ nhãn, ắt sau này làm long thịnh cho Phật pháp!”, rồi cho đi theo hầu về chùa Long Động, làm lễ thế phát, thụ giới Sa di. Sau đó, Giác Hoàng gửi ngài tới tham học với Hòa thượng Tính Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, ngài chuyên nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, khi đọc phần chính tông, đoạn nói về A Nan bảy lần hỏi về cái “tâm” đến đoạn nói về “khách trần” thì bừng tỉnh, nhận ra là, “tính thấy vốn không sinh, diệt”, ngài liền sở ngộ.

Một hôm, ngài về tham yết Giác Hoàng và trình kiến giải của mình bằng một bài tụng về “tam yếu” bị Giác Hoàng gạch bỏ đi cả. Đã mấy lần thỉnh cầu Giác Hoàng đều làm thinh, bảo: “Hãy tự mình tham khảo lấy”. Đêm ấy, ngài về phòng nhập thiền, tâm trí bị dao động mạnh với bao ý nghĩ vụt hiện, vụt tắt; quá nửa đêm, nhân thấy hoa đèn lụi, ngài chợt đại ngộ. Sáng mai, ngài lên trình chỗ sở ngộ và được Giác Hoàng ấn chứng. Từ đó, ngài nguyện tu theo mười hạnh đầu đà và phát lời nguyện lớn: “Chư Phật và Bồ Tát, có những hạnh nguyện nào, tôi xin học và thực hành theo; dù chúng sinh khen hay chê, dù khinh hay trọng, dù bố thí hay cướp đoạt, khi mắt thấy, tai nghe cũng đều hỷ xả, khiến cho tất cả cùng bước lên nấc thang giác ngộ” (Chư Phật, Bồ Tát, sở hữu hành nguyện, ngã kim phụng trì; nhược nhất thiết chúng sinh, hoặc hỷ tán, hoặc khinh mạn, hoặc thí dự, hoặc xâm đoạt, xúc mục văn danh, tất giai xả chi, linh đăng giác địa) Trích Phát Nguyện Văn.

Niên hiệu Hưng Long XIII (1305), Giác Hoàng lập đại giới đàn cho ngài thụ Tỳ khưu và Bồ tát, và đặt pháp danh là PHÁP LOA. Qua những lần khảo chứng, nhân thấy ngài đã ngộ đạo, lại tinh thông kinh điển, Giác Hoàng cử ngài làm chủ giảng chùa Báo Ân ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Năm 1307, ngài cùng với năm vị pháp hữu tới am Ngọa Vân cầu thỉnh Giác Hoàng dạy bộ Đại Tuệ Ngữ Lục. Tháng 5 năm đó, trên am Ngọa Vân, khi làm lễ bố (bá) tát xong, ngài được Giác Hoàng trao y bát và tâm kệ.

Niên hiệu Hưng Long XVI (1308), đúng ngày mồng một tết năm Mậu Thân, ngài chính thức được Giác Hoàng cử giữ chưa trụ trì chùa Báo Ân, và được suy tôn là Đệ Nhị Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.

Sau khi ngài chính thức được cử làm lễ đệ nhị tổ lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, số người xin xuất gia và quy y học đạo có hàng vạn (riêng về tăng, ni xin làm đệ tử là 15.000 người, ngài phải nhờ hai vị sư huynh là Tông Cảnh và Bảo Phác về chùa Báo Ân dạy luật Tứ Phần cho các học tăng. Ngài Tông Cảnh trụ trì chùa Tiên Du và ngài Bảo Phác trụ trì chùa Vũ Ninh. Cả hai vị lúc ấy đã được triều đình tôn là quốc sư. Còn ngài thì nhận trách nhiệm giảng các bộ kinh lớn: Kim Cương, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Lăng Già, Viên Giác, Pháp Hoa và Niết Bàn, các bộ ngữ lục như: Đại Tuệ Ngữ Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục… ngoài ra, ngài còn tới thuyết pháp cho tín đồ tại các chùa Quỳnh Lâm, Dưỡng Phúc, Xí Thịnh Quang, An Lạc Tàng Viện và Kiến Xương phủ. Trong số các đệ tử kể trên, đắc pháp khoảng 3.000 người; số tự viện cũng được xây dựng rất nhiều, gồm 800 sở, dựng hai đài giảng kinh, xây 5 cây bảo tháp, đúc 1.300 tượng Phật lớn nhỏ bằng đồng. Vua Anh Tông “nhân ngày lên làm thái thượng hoàng, đã cho đúc tượng đồng ba vị Phật A Di Đà, Thích Ca và Di Lặc, mỗi tượng cao 17 thước ta” (theo VNPGSL trang 382).

Sách Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang ghi con số bất động sản do triều đình và tín đồ cúng cho ngài để xây dựng Đại Tùng Lâm (ở hai chùa Quỳnh lâm và Báo Ân) số ruộng có hàng ngàn mẫu. Năm 1308, vua Anh Tông đã lấy 100 mẫu ruộng của riêng gia đình nhà Trần để cúng vào chùa Bảo Ân. Năm 1312, Anh Tông cúng dường năm vạn quan tiền để Pháp Loa bố thí cho người nghèo. Vua cũng dâng cúng thuyền bè và kiệu phu cho chùa dùng, nhưng Pháp Loa từ chối không nhận. Vua lại sai lấy 500 mẫu ruộng từ Miện Như Trang cúng vào chùa làm bất động sản. Năm 1313, Anh Tông lại theo lời di chiếu của Nhân Tông lấy những bảo vật thờ tự Tam Bảo của mẹ cúng dường vào chùa Báo Ân, lại cúng dường vật liệu xây dựng và cung cấp thợ phụ để làm thêm chùa tháp. Cũng trong năm đó, hoàng thái hậu Bảo Từ cúng vào chùa Siêu Loại 300 mẫu gia điền. Trước đất, hoàng thái hậu đã quy y tại chùa này. Năm 1315, Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng của người cung nhân cũa họ Phạm cúng vào chùa. Năm 1317, tư đồ Văn Huệ Vương và công chúa Thượng Trân cúng dường tới 900 lạng vàng để đúc tượng Phật Di Lặc. Con trai của công chúa Nhật Trinh là cư sĩ Di Loan cúng dường 300 mẫu ruộng tại phủ Thanh Hoa. Hoàng thái hậu Bảo Tử cúng dường 222 mẫu đất ở phủ An Hoa. Sau đó, tư đồ Văn Huệ Vương lại cúng 300 mẫu ruộng ở Gia Lâm. Lúc này điền địa cúng vào cho riêng chùa Quỳnh Lâm đã lên tới trên 1.000 mẫu. Chùa có tới 1.00 người tá điền làm ruộng…” (Sđd, trang 383).

Đại Tạng Kinh, lần đầu tiên, được ấn hành ở nước ta, gồm 5.000 quyển (theo Tam Tổ Thực Lục ghi là năm 1311, vua Anh Tông xuống chiếu cho khắc Đại Tạng Kinh và năm 1321, tôn giả Pháp Loa đã viết lời Bạt cho Đại Tạng Kinh đời Trần). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép là “bản phó được khắc và in để lưu hành” (chắc là sao bản chính Đại Tạng Kinh 6010 quyển, đóng thành 587 tập, thỉnh  từ nhà Nguyên bên Trung Quốc. Công cuộc khắc và in Đại Tạng Kinh, khởi sự năm 1311, mãi tới năm 1329 mới hoàn thành. Sách Tam Tổ Thực Lục còn chép là vua Anh Tông sai khắc các tác phẩm của Giác Hoàng “Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Thạch Thất Mị Ngữ, Tăng Già Toái Sự và Đại Hương Hải Ân Thi Tập để vào Đại Tạng Kinh đời Trần”.

Năm 1312, vua Anh Tông thỉnh ngài vào cung Tư Phúc giảng Đại Tuệ Ngũ Lục, vì trước đó, năm 1304, vua đã được Giác Hoàng truyền thụ Tại Gia Bồ Tát Tâm Giới nên lần này, vua ngỏ ý nhờ ngài chỉ dẫn cách thức thực hành “Hạnh Nguyện Bồ Tát” để giữ nước an dân và hộ trì Chính Pháp. Ngài đã biên tập cuốn Hộ Quốc Nhân Vương Nghi Quỹ để giúp vua Anh Tông quán triệt đường lối tu học và cách hành xử của các bậc đế vương sao cho có ích lợi đối với dân với nước. Qua năm sau, tức 1313, ngài phụng chiếu về trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm và đặt văn phòng trung ương của Giáo Hội ở đó.

Niên hiệu Đại Khánh thứ IV (1317), đời Trần Minh Tông, tháng 2, năm Đinh Tỵ, ngài bị đau nặng liền viết tâm kệ và lấy bộ pháp y của Giác Hoàng trao cho ngài khi trước để trao lại cho Huyền Quang, pháp khí và tích trượng thì trao cho Cảnh Nguyện, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy trúc trao cho Huệ Quán, pháp thư trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ân, mỏ vàng trao cho Huệ Chúc…, nhưng chỉ sau đó ít ngày, ngài được bình phục.

Năm 1318, thượng hoàng Anh Tông thỉnh ngài vào cung Thiên Trường giảng bộ Tuyết Đầu Ngữ Lục, sau khi khóa giảng kết thúc, Anh Tông tự tay viết 4 chữ “Phổ Tuệ Tôn Giả” kính dâng ngài (Vua Anh Tông đối với ngài thường khiêm tốn xưng là đệ tử). Quốc vụ thượng tể Quốc Chấn cũng thỉnh ngài vào phủ An Hoa giảng Đại Tuệ ngữ Lục. Cũng năm ấy, ngài còn trao giới Tại Gia Tam Quy cho công chúa Hoa Dương.

Năm 1320, đại vương Tuệ Nhân xin thụ Bồ Tát Tâm Giới, và Quốc Vụ Thượng Tể thụ giới Tại Gia Bồ Tát. Cách ba năm sau, năm 1323, Văn Huệ Vương và Uy Huệ Vương đích thân đến chùa Báo Ân xin thụ Bồ Tát Tâm Giới, hoàng thái hậu Bảo Từ và công chúa Bảo Vân xin ngài giảng kinh Hoa Nghiêm.

Niên hiệu Khai Hựu năm đầu (1329), đời Trần Hiến Tông, ngài mở thêm cảnh ở Côn Sơn và ở Thanh Mai, tạo cho nơi đây thành danh lam thắng cảnh. Ngài có làm bài thơ đề là Luyến Thanh Sơn. Nguyên văn:

“Sơ sấu cùng thu thủy

Sàm nham lạc chiếu trung

Ngang đầu khán bất tận

Lai lộ hựu trùng trùng”.

(Dòng thu gầy hun hút

Núi cao soi nước trong

Ngửng đầu nhìn bất tận

Đường trước nổi muôn trùng). (Nguyễn Lang dịch theo VNPGSL t1)

Niên hiệu Khai Hựu thứ 11 (1330). Ngày 5 tháng 2 năm Canh Ngọ, lúc ngài đang giảng kinh Hoa Nghiêm cho hàng ngàn người tới nghe tại viện An Lạc, bỗng cảm thấy trong mình khó chịu, ngài nhờ trưởng lão Bích Phong giảng tiếp. Đến ngày 11 thì bệnh thêm trầm trọng, Huyền Quang đứng hầu bên cạnh, thấy ngài ngủ mà nói ba tiếng “Hồng”.

Huyền Quang liền thưa:

-Tôn giả nói mớ sao?

Ngài đáp:

-Ngủ thì nói mớ, chẳng ngủ thì chẳng nói mơ.

Huyền Quang hỏi tiếp:

-Thế nào là ngủ với thức, để khỏi mắc bệnh?

Ngài đáp:

-Ngủ với thức là một, bệnh cũng chẳng can gì tới ngươi, không bệnh cũng chẳng can gì tới ngươi.

Huyền Quang lại hỏi:

-Tại sao lại phát ra tiếng nói?

Ngài đáp:

-Khi nghe tiếng gió thổi trong cây thì sao?

Huyền Quang liền hỏi:

-Tiếng gió thổi trong cây không làm cho ai lầm, nhưng lời nói trong giấc mơ dễ khiến người khác hiểu sai.

Ngài nói:

-Kẻ si mê cũng có thể bị tiếng gió trong cây làm mê hoặc.

*****

Đến ngày 13, các đệ tử đưa ngài về viện Quỳnh Lâm tĩnh dưỡng. Ngày 1 tháng 3, thượng hoàng Minh Tông đích thân đến thăm và gọi ngự y tới chẩn mạch và cắt thuốc cho ngài, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm, các đệ tử quì bạch: “Xưa nay các bậc đại ngộ, lúc sắp tịch, đều có những lời kệ để lại cho đời sau, sao riêng thầy không có?”

Ngài liền ngồi dậy, cầm bút viết bài kệ:

“Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn

Tứ thập dư niên mộng huyễn gian

Trân trọng chư nhân hưu tá vấn

Na biên phong nguyệt cánh man khoan”.

Tạm dịch:

Muôn duyên cắt đứt, một thân nhan

Trót nửa cuộc đời mộng thế gian

Hỡi các môn đồ đừng gạn hỏi

Bên kia trăng gió đẹp mênh mang.

Viết xong bài kệ, ngài định thần thị tịch, ngày 3 tháng 3 năm Canh Ngọ, trụ thế 46 năm.

Sau khi được tin ngài tịch, thượng hoàng Minh Tông ngự bút truy tặng ngài là Tịnh Trí Đại Tôn Giả, đặt tên tháp là Viên Thông, và cúng mười lạng vàng để xây tháp; các đệ tử theo lời di chúc, rước nhục thể về nhập tháp tại núi Thanh Mai:

“Thùy thủ tuần hòa dĩ liễu duyên

Giác hoàng kim lũ đắc nhân truyền

Thanh sơn mạn thảo quan tàng lý

Bích thụ thâm sương xác thoát thiền

Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt

Hiểu mê trượng thất hữu vô yên

Tương đầu châm giới ta phi tích

Trác tựu ai chương lệ huyễn nhiên”.

Trắng tay chẳng chút nợ trần mang

Đã có người truyền phép Giác vương

Giầy xếp trong quan, nghìn núi cỏ,

Ve ra ngoài xác, một cây sương.

Trăng đêm nương náu trong tăng viện,

Mù sớm ngăn che trước pháp đường.

Kim cổ cùng nhau nay vắng vẻ,

Viếng ai một khúc lệ đôi hàng. (Bản dịch Đinh Văn Chấp – Tạp chí Nam Phong)

Ngót phần ba thế kỷ, từ khi đắc pháp đến lúc nhập diệt, ròng rã 24 năm, ngài đã làm tròn nhiệm vụ kế thừa sự nghiệp lãnh đạo Giáo hội Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do Giác Hoàng trao phó.

Về Cách Thức Nhập Thế Hành Đạo – Đối với tín đồ, – gồm đủ các tầng lớp trong xã hội, từ vua, quan đến thứ dân -, ngài luôn luôn gần gũi đối xử bình đẳng với tất cả mọi người, thể hiện qua những buổi đàm kinh, thuyết pháp, khi ở triều nội, lúc ở các chùa viện…

Về Công Cuộc Kiến Thiết – Ngài đã xây dựng 800 chùa, tháp, nhất là mở Đại Tùng Lâm ở hai chùa Báo Ân, chùa Quỳnh Lâm, nhằm mục đích: đào tạo tăng tài, để sau ra hoằng dương Chính Pháp giáo hóa tín đồ.

Về Phương Diện Văn Học –Ngài đã trứ tác và chú giải các bộ kinh lớn, nhưng sự nghiệp quan trọng trong thời đại ngài là việc ấn hành bộ Đại Tạng Kinh, và việc tổ chức xây dựng giáo hội thống nhất Đạo Phật Việt. Công cuộc tiến hành còn đang dở dang thì ngài tịch. Đây quả là sự thiệt thòi, mất mát lớn lao chung cho đạo pháp và dân tộc!

Những tác phẩm do ngài trứ tác và biên khảo, gồm có:

Đoạn Sách Lục

Tham Thiền Yếu Chỉ

Kim Cương Trường Đà La Ni Kinh Chú

Pháp Hoa Kinh Khoa Sớ

Bồ tát Tâm Kinh Khoa Sớ

Thạch Thật Mị Ngữ

Pháp Sự Khoa nghi

Lăng Già Kinh Khoa Sớ

Hộ Quốc Nhân Vương nghi Quĩ

Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ Lục…[258]

 


[258] Phần lớn những tác phẩm trên đều đã bị thất lạc, hiện chỉ còn lại Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục do ngài biên tập, nhưng thi tụng về thiền ngữ của thượng sĩ Tuệ Trung là do Giác Hoàng khảo đính. Và một phần Đoạn Sách Lục; một phần Tham Thiền Chỉ Yếu in trong bộ Tam Tổ Thực Lục thế kỷ XVIII. Ngoài ra, còn lại ba bài thơ: một bài ca ngợi thượng sĩ Tuệ Trung, in trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, hai bài khác, thể Ngũ ngôn và Tứ tuyệt in trong Việt Âm Thi Tập và Trích Diễm Thi Tập.

ĐỆ TAM TỔ TÔN GIẢ HUYỀN QUANG
(1254-1334)

Tôn giả họ Lý, tên Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần, niên hiệu Nguyên Phong thứ IV (1254) đời vua Trần Thái Tông, chính quán: làng Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay là tỉnh Hà bắc). Thân phụ là Lý Tuệ Tổ, dòng dõi trâm anh thế phiệt, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không ra làm quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Ngài có tướng mạo của bậc siêu nhân, bản tính thông minh, thuộc loại “sinh nhi tri tri”, nên được cha mẹ yêu quí.

Niên hiệu Bảo Phù thứ II năm Giáp Tuất (1274) đời vua Thánh Tông, ngài tròn 20 tuổi, đỗ khoa thi Hương, và năm sau (1275) đậu thủ khoa kỳ thi Hội, được cử vào viện Hàn Lâm. Ngài thường phụng mệnh triều đình tiếp sứ thần phương bắc (Trung Hoa), nổi tiếng về văn thơ.

Khi chưa thi đỗ, cha mẹ có ý kén người đính hôn, nhưng gặp sự trắc trở mãi. Đến khi thi đậu thì các nhà phú quí dành nhau gả con gái cho, vua cũng gọi gả công chúa nhưng ngài đều từ chối. Vốn có con mắt của bậc siêu phàm, ngài chán ngán cảnh cao sang quyền quí, nhìn đời khác nào như là vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ; tình người ấm lạnh:

“Khó khăn thì chẳng ai nhìn

Đến khi đỗ trạng trăm nghìn nhân duyên!”

Ngài thường tháp tùng vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) nghe Đệ nhị tổ Pháp Loa giảng kinh. Từ đó ngài có ý định phát tâm xuất gia tu Đạo Giải Thoát.

Niên hiệu Hưng Long thứ XIII năm Ất Tỵ (1305) đời vua Anh Tông, năm ấy ngài đã 51 tuổi dâng sớ lên vua xin từ quan, đi tu, đến ở chùa (núi) Vũ Ninh do Thiền sư Bảo Phác trụ trì, xin thế phát qui y.

Niên hiệu Hưng Long thứ XIV năm Bính Ngọ (1306), Đệ nhị tổ tôn giả Pháp Loa được lập làm giảng sư chùa Siêu Loại, theo sách Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, thì “… Huyền Quang cũng đi theo thiền sư Bảo Phác về dự lễ này. Trúc Lâm (tức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông) gặp lại Huyền Quang trong hình thái tăng sĩ rất mừng, biết Huyền Quang là một văn tài, liền đề nghị Bảo Phác để Huyền Quang lại phụ tá với mình. Từ đó, Huyền Quang tùy tòng Trúc Lâm trong 2 năm, bởi vì cuối năm 1308 thì Trúc Lâm tịch. Trong 2 năm đó, Trúc Lâm đã nhờ Huyền Quang soạn những sách thực dụng sau đây lưu hành trong giáo hội Trúc Lâm:

1/ Chư Phẩm Kinh: tuyển tập của những phẩm kinh thiết yếu và thực dụng.

2/ Công Văn Tập: tuyển tập những bài văn sớ, điệp dùng trong các nghi lễ Phật Giáo.

3/ Thích Khoa Giáo: tập sách giáo khoa và Đạo Phật.

Tổ Gia Thực lục chép rằng “Trúc lâm rất bằng lòng bản thảo Thích Khoa Giáo, vua ngự bút phê như sau: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn hiệu khảo rồi thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”. Trúc Lâm liền bảo thợ cho khác chữ in những sách ấy. Các sách này hẳn cũng đã được đưa vào Đại Tạng Đời Trần. Huyền Quang cũng đã được Trúc Lâm cho đi vân du khắp nước thăm danh lam và thỉnh thoảng đăng đàn thuyết pháp. Có lần Huyền Quang được Trúc Lâm cho ngồi trên pháp tòa làm bằng trầm hương của mình để giảng kinh. Sau đó, ngài được Đệ nhị tổ Pháp Loa truyền tâm ấn, lập làm trụ trì chùa Vân Yên núi Yên Tử. Mến phục sức học quảng bác của ngài, tăng, ni theo về học đến khoảng 1000 vị. Chính trong thời gian này Huyền Quang sáng tác bài phú bằng chữ nôm vịnh chùa Hoa Yên gọi là Vịnh Hoa Yên Tử Phú. (Sđd, trang 401, 402)

Niên hiệu Hưng long thứ XXI, ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu, (1313), vua Anh Tông thỉnh ngài về chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, ngài dâng sớ lên vua, xin về quê hương thăm cha mẹ. “Hồi đó ông đã 60 tuổi, muốn gần gũi hai vị trong một thời gian, ông đã lập một ngôi chùa ngay trong làng, sát mé tây nhà cha mẹ đặt tên là chùa Đại Bi. Nghe ông lập chùa, nhiều người ở kinh đô về ủng hộ. Ngày khánh thành chùa, ông mở pháp hội lớn, mời chư tăng bốn phương về tham dự. Hàng vạn người tham dự đại hội tổ chức bảy ngày bảy đêm. Những phẩm vật và tiền bạc dâng cúng, ông đem ra cúng dường chư tăng và tặng phát cho người nghèo khổ. Có lẽ pháp hội này được tổ chức  trong dịp đại lễ Vu Lan rằm tháng bảy, mùa báo hiếu cha mẹ”. (VNPGSL trang 402)

Sau đó, ngài trở về ở chùa Thanh Mai trong 6 năm, rồi về trụ trì chùa Tư Phúc ở Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Ngài tịch ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), trụ thế 80 năm. Vua Minh Tông phong tước hiệu là TRÚC LÂM ĐỆ TAM TỰ PHÁP HUYỀN QUANG TÔN GIẢ, và ngự bút đề tặng tôn giả bài thơ năm chữ dài 28 câu[292] (xin xem chú thích)

Những tác phẩm của Ngài:

Ngọc Tiên Tập.

Chư Phẩm Kinh.

Công Văn Tập.

Phổ Tuệ Ngữ Lục.

Phụ Lục

NHÂN SỰ ĐỀ CỨU LAN TỰ

Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,

Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.

Tranh như trục bạn qui sơn khử,

Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.

NHÂN CÓ VIỆC, ĐỀ Ở CHÙA CỨU LAN

Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối,

Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm.

Chi bằng theo bạn về non quách,

Núi dựng non che vạn vạn tầng. (Hoàng Trung Thông)

AI PHÙ LỖ

Khóa huyết thư thành dục ký âm,

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.

Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt.

Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

THƯƠNG TÊN GIẶC BỊ BẮT

Chích máu thành thơ mượn gửi lời

Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi

Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ?

Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi (Huệ Chi)

CÚC HOA (3)

Vong thân vong thế dĩ đô vong,

Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,

Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

HOA CÚC

Sự đời quên cả chẳng lôi thôi

Chiếc chõng quanh năm bó gối ngồi

Ngày tháng chẳng còn sờ đến lịch

Thấy hoa cúc nở đoán thu rồi.

Nguyễn Trọng Thuật dịch

Quên mình, quên hết cuộc tang thương,

Ngồi lặng đìu hiu, mát cả giường.

Năm cuối trong rừng không có lịch,

Thấy hoa cúc nở biết trùng dương. (Theo Phan Võ)

CÚC HOA (6)

Xuân lai hoàng bạch các phương phi,

Ái diễm liên hương diệc tự thì.

Biến giới phồn hoa toàn trụy địa,

Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly

HOA CÚC

Xuân đến trăm hoa đua sắc thắm,

Một thời hương sắc kém chi nhau.

Vườn thu tàn tạ ngàn hoa rụng,

Riêng cúc đông ly vẫn được màu. (Băng Thanh)

(Thơ viết về hoa cúc tất cà có sáu bài, nhưng ở đây chúng tôi chỉ trích hai bài làm điển hình).

DIÊN HỰU TỰ

Thượng phương du hạ nhất chung lan,

Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.

Xi vẫn đảo miên phương kính lãng,

Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.

Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,

Bán điễm vô ưu nhãn phóng khoan.

Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,

Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

CHÙA DIÊN HỰU

Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn,

Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan.

In ngược hình chim, gương nước lạnh,

Sẫm đôi bóng tháp, ngón tiêu hàn.

Muôn duyên chẳng vướng: xa trần tục,

Một mảy nào lo: rộng nhãn quan.

Thấu hiểu thị phi đều thế cả,

Dầu ma dầu Phật, chốn nào hơn. (Theo Huệ Chi Thơ Văn Lý Trần, tập 2 quyển thượng)

XUÂN NHẬT TỨC SỰ

Nhị bát giai nhân thích tú trì,

Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.

Kha lân vô hạn thương xuân ý,

Tận tại đình châm bất ngữ thì..

TÚC CẢNH NGÀY XUÂN

Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,

Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu.

Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,

Là khi không nói, chợt dừng thêu. (Huệ Chi (TVLT), t2 q thg)

YÊN TỬ SƠN AM CƯ

Am bức thanh tiêu lãnh,

Môn khai vân thượng tằng.

Dĩ can Long động nhật,

Do xích Hổ khê băng.

Bão chuyết vô dư sách,

Phù suy hữu sấu đằng.

Trúc lâm đa túc điểu,

Quá ngọ bán nhàn tăng.

Ở AM NÚI YÊN TỬ

Am sát trời xanh lạnh,

Cửa mở trên tầng mây.

Động Rồng trời sáng bạch,

Khe Hổ lớp băng dầy.

Vụng dại mưu nào có,

Già nua gậy một cây.

Rừng tre chim chóc lắm,

Quá nửa bạn cùng thày. (Đỗ Văn Hỷ (TVLT, t2 q. thg)

CHU TRUNG

Nhất diệp biển chu hồ hải khách,

Xanh xuất vi hành phong thích thích.

Vi mang tứ cố vãn triều sinh,

Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.

TRONG THUYỀN

Dấu khách giang hồ thuyền một lá,

Hàng lau lách gió chèo thong thả.

Bốn bề trông quạnh ngọn triền lên,

Nước biếc liền trời âu trắng xoá. (Đinh Văn Chấp – Tạp chí Nam Phong)

THẠCH THẤT

Bán gian thạch thất hòa vân trụ,

Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn.

Tăng tại thiền sàng kinh tại án,

Lô tàn cốt đột nhật tam can.

NHÀ ĐÁ

Nửa gian nhà đá, bạn cùng mây,

Tấm áo lông thô, lạnh tháng ngày.

Sư khểnh giường thiền, kinh trước án.

Lò tàn, than lụi, sáng nào hay. (Huệ Chi – TVLT, t2 q thg)

TRÚ MIÊN

Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,

Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.

Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,

Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.

NGỦ NGÁY

Vườn tược cha ông mẵc sức cày,

Quanh nhà xanh nượp mấy ngàn cây.

Ngoài song, cành quê chim cưu vắng,

Gió mát, triền miên giấc ngủ ngày. (Kiều Thu Hoạch – Tạp chí Văn học)

VỊNH VÂN YÊN TỰ PHÚ

(Phú Vịnh Chùa Vân Yên)

Phiên âm:

Buông niềm trần tục;

Náu tới Vân Yên.

Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy;

Gió tiên đua đòi bước thần tiên.

Bầu đủng đỉnh dang hòa thế giới;

Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.

Đất phúc địa nhận xem luống kể, kể bao nhiêu dư trăm phúc địa;

Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ, lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên.

Thấy đây;

Đất tựa vàng liền;

Cảnh bằng ngọc đúc.

Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;

Núi nghìn tầng quanh co đường Thục.

La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịn một hòn;

Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc.

Cỏ chiều gió lướt, dợm vui vui;

Non tạnh mưa dầm, màu thúc thúc.

Ngàn cây phơi cánh phương, vườn thượng uyển đoá tốt rờn rờn;

Hang nước tuới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục.

Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông;

Da điểm đồi mồi, gióng hòa vườn trúc.

Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành;

Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc.

Cảnh tốt hòa lành;

Đồ tựa vẽ tranh.

Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo;

Nhìn chi vua Bụt tu hành.

Hồ sen trương tán lục;

Suối trúc bấm đàn tranh.

Ngự sử mai hai hàng chầu rạp;

Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh.

Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng;

Tử vi bày liệt vị công khanh.

Chim chóc bạn cắn hoa nâng cúng;

Vượn bồng con kề cửa nghe kinh.

Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mấy nhè nhẹ;

Kề song thưa thàt ngồi thiền định, trăng vằng vặc, núi xanh xanh.

Huống chi,

Vân thủy bằng lòng;

Yên hà phải thú.

Vui thay cảnh khác cảnh hoàng kim;

Trọng thay đường hơn đường cẩm tú.

Phân ân ái, am Não am Long;

Dứt nhân duyên, nàng Nường nàng Mụ.

Mặc cà sa nằm trướng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương;

Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ.

Chốt tiết dương tiếng nhạc dõi truyền;

Voi la đá tính từ chẳng đố.

Xem phong cảnh hơn cảnh Bà roi;

Phóng tay cầu chưng cầu Thằng ngụ.

Bao nhiêu phong nguyệt, về cõi vô tâm;

Chơi dấu nước non, dưỡng đời thánh thọ.

Ta nay:

Ngồi đỉnh Vân Tiêu;

Cuỡi chơi Cánh Diều.

Coi đông sơn tựa hòn kim lục;

Xem đông hải tựa miệng con ngao.

Nức đài lan nghĩ hương đan quế;

Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều.

Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện;

Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu.

Thày tu trước đã nên Phật quả;

Tiểu tu sau còn vị tỳ khưu.

Thấy đây:

Hồ thiên lẻ tẻ;

Xem lâu có nhẹ.

Tuy rằng học đạo hư vọ;

Ngậm ngụt hỏi thiền ngôn nghĩ.

Mê một tấm lòng xét chẳng cùng;

Chác tắc bóng nghìn vàng còn rẻ.

Hẹn đến lâm tuyền làm bạn, oooo;

Bảo rằng ooo, o o o ừ hễ.

Đua khoái lạc, chân bước lăm chăm;

Nhuốm phồn hoa, đầu đà bạc tỷ.

Chẳng những vượn hạc thốt thề;

Lai phải cỏ hoa cười thỉ.

Từ đến đây!

Non nước đã quen;

Người từng mấy phen.

Đầu khách dễ nên biến bạc;

Mặt non hãy một xanh đen.

Hồ nước giá lụa là lọc nước;

Cửa tráu cây phên trúc cài theo.

Đàn khúc nhạc tiếng không tiêu đính;

Vỗ tay ca cách lễ tạ liền.

Lạ những ôi!

Tây Trúc đường nào;

Nam châu có mấy.

Non Linh thứu ai đem về đây;

Cảnh Phi lai mặt đà thấy đấy;

Vào chưng cõi thánh thênh thênh;

Thoát rẽ lòng phàm phây phấy.

Bao nhiêu phong nguyệt, thề thốt chẳng cùng;

Hễ cảnh giang sơn, ai nhìn thấy đấy.

Từ trước nhẫn sau;

Thấy sao chép vậy.

Kệ rằng:

Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,

Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà.

Khuya sớm sáng chong đèn bát nhã,

Hôm mai rửa sạch nước ma ha.

Lòng thiền vặc vặc trăng soi giọi,

Thế sự hiu hiu gió thổi qua.

Cốc được tính ta nên Bụt thực,

Ngại chi non nước cảnh đường xa.


[292] Chú thích: Bài thơ của vua Trần Minh Tông kính tặng Tôn giả Huyền Quang. Phiên âm nguyên văn chữ Hán trong Thánh Đăng ngữ Lục.

Côn sơn đại đạo sư

Vị ngã tác phúc điền

Vương thần tất qui kính,

Phật đạo tục hoàn liên.

Pháp kế nhị tổ hậu,

Cứu cánh Uy Âm tiền.

Bất trứ văn tự tướng,

Diễn thuyết Như Lai thiền.

Bản lai vô đại tiểu,

Nhậm khí tùy phương viên,

Cố ngã hỏa thạch trung.

Cái thị hữu túc duyên,

Thân thường pháp nhũ vị,

Thân thể giác khinh tiên (tiện).

Tất thống hốt đả phá,

Bác huyệt dữ thất xuyên,

Tương vị hữu sở đắc,

Sở đắc hà vật yên?

Tương vị vô sở đắc,

Tham học phi đồ nhiên.

Sở đắc vô sở đắc,

Dục ngữ thù nan ngôn.

Ngôn ngữ ký nan đắc,

Thùy thụ phục thùy truyền.

Cát đằng diệc bất thiểu,

Như phọc cánh thiêm triền.

Chỉ chỉ.

Nhiên nhi bất đắc dĩ,

Đoạn kệ phục trùng tuyên.

Côn sơn bậc thầy lớn,

Làm “ruộng phúc” cho ta.

Vương hầu đều kính trọng,

Đạo Phật nối dài ra.

Tiếp pháp Đệ nhị tổ,

Rồi sẽ gặp Di Đà.

Chẳng nệ vào văn tự,

Nghĩa thiền vẫn nói ra.

Vẫn không có lớn, nhỏ,

Tròn, vuông tùy gọi là…

Nhà lửa ta, nhìn lại,

Với Phật, duyên đậm đà.

Nên từng nếm sữa pháp,

Thênh nhẹ tấm thân ta.

Tám lỗ với bảy khiếu,

Thùng sơn đập vỡ ra.

Có thể nói “sở đắc”,

“Sở đắc” là chi mà?

Lại nói “không sở đắc”,

Tham  thiền chớ bỏ qua.

Sở đắc, không sở đắc,

Muốn nói, khó nói ra.

Đã không nói ra được,

Ai học? Truyền cho ta?

Dây nẻo cũng chẳng ít,

Như trói chằng thịt da.

Thôi Thôi!

Nhưng vì bất đắc dĩ,

Kệ ngắn lại bày ra. (Bản dịch Trần Lê Văn trong TVLT t2 q. Thg trang 811, 812)

 

(Sưu tầm)