CHÙA DIÊN PHÚC VỚI VƯƠNG TRIỀU LÍ – LỊCH SỬ VÀ HIỆN TẠI.
Nguyễn Thuý Thơm
(Thích Minh Thịnh)
Sách Đại Việt sử kí toàn thư cho biết: tháng Mười năm Kỉ Dậu (1009) vào ngày Tân Hợi vua Lê Ngọa Triều băng, ngay sau đó, ngày Quí Sửu, Lí Công Uẩn được quần thần “dìu lên chính điện, lập làm thiên tử, lên ngôi hoàng đế”.
Với tư cách là hoàng đế và tình cảm của người con quê hương, tháng Hai năm Canh Tuất (1010), vua “xa giá về châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho bô lão trong làng theo thứ bậc khác nhau” (Toàn thư). Có lẽ trong dịp ngự giá thăm quê lần này vua đã duyệt lại tổng thể kiến trúc kinh đô lần cuối, để 5 tháng sau, mùa thu tháng Bảy năm Canh Tuất (1010), cùng với chiến thuyền và ngự thuyền, vua cùng quần thần trong triều dời đô từ Hoa Lư ra thành cũ Đại La, đổi tên là Thăng Long, tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Các tác giả bộ Đại Việt sử kí toàn thư đã có lời bình súc tích mà xác đáng rằng: “Vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận”.
Vị vua mở đầu triều Lí – triều đại mở đầu của kỉ nguyên phát triển liên tục của quốc gia phong kiến độc lập dân tộc – được sinh ra và giáo dưỡng từ trong nhà chùa, được bước vào hàng ngũ quan lại cao cấp dưới triều Tiền Lê, rồi được giới quan lại và Sư tăng cao cấp “dìu lên chính điện, lập làm thiên tử”.
Có thể nói, nhà Lý đã có nhiều cống hiến lớn lao đối với đất nước, tạo nên vị thế quan trọng trong lịch sử dân tộc. Vương triều Lý đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Nền độc lập dân tộc được bảo đảm, khối cố kết cộng đồng quốc gia dân tộc từng bước được củng cố vững chắc, trên nền tảng đạo lí truyền thống của dân tộc với hạnh Từ Bi Trí Tuệ của Phật giáo …, Quốc gia Đại Việt nhanh chóng trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất và văn minh thịnh đạt ở Đông Nam Á lúc bấy giờ mà Thăng Long là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, nơi hội tụ kết tinh và toả chiếu những giá trị tinh hoa của đất nước. Có thể nói, từ chốn cung đình cho tới nơi thôn quê, từ đường lối trị nước của vua quan cho đến lề thói ứng xử của thứ dân, trong mọi biểu hiện của đời sống văn hóa, nghệ thuât … nơi đâu chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy dấu ấn của tư tưởng, lối sống, văn hóa Phật giáo. Đây cũng là chủ đề chính của những cuộc hội thảo khoa học (cấp Quốc gia hoặc địa phương), của những luận văn khoa học của các học giả trong và ngoài nước được công bố tập trung trong 20 năm qua nhằm cho chúng ta có một nhận thức đầy đủ hơn, chính xác hơn về vương triều Lí trước thềm của Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Một trong những chủ đề đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước là vấn đề Quê hương, thân thế và sự nghiệp của Lí Công Uẩn.
Nếu như vấn đề quê hương và sự nghiệp của Đức Thái Tổ Lí Công Uẩn tuy còn đây đó những nhận định về tiểu tiết chưa hoàn toàn thống nhất trong giới khoa học nhưng cơ bản đã đạt được sự thống nhất đáng tin cậy thì vấn đề thân thế của Ngài cho đến nay vẫn còn là vấn đề gây ra nhiều tranh luận. Có thể nói, dưới dạng chuyên đề, Hội thảo khoa học Làng Dương Lôi với Vương triều Lí (do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Hà Bắc, UBND xã Xuân Hồng tổ chức năm 1994) là màn mở đầu, và kết thúc với Hội thảo khoa học Chùa Diên Phúc với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (do Viện Nghiên cứu Truyền thống và phát triển phối hợp với nhà chùa tổ chức vào ngày 10/4/2010). Nội dung trọng tâm của hai Hội thảo là nhằm làm rõ về quê hương của mẹ Lí Công Uẩn và mối quan hệ với Thăng long trong tiến trình lịch sử.
Theo chúng tôi, do đặc thù văn hóa tâm linh của người Việt, xuất xứ của những vĩ nhân (nhất là ở những thời điểm đặc biệt của lịch sử) thường được khỏa lấp bởi những huyền thoại mờ ảo, người đời sau lịch sử hóa huyền thoại, hoặc tiếp tục huyền thoại hóa lịch sử. Trong bối cảnh đó, rõ ràng là muốn dựng lại bức tranh chân thực của lịch sử, chúng ta không thể chỉ trông chờ vào nguồn tài liệu thư tịch đương thời mà phải “giải mã” huyền thoại để tìm ra cái cốt lõi của lịch sử, phải thông qua nguồn tư liệu gián tiếp như khảo cổ học, ngôn ngữ học lịch sử, dân tộc học, và đăc biệt là địa danh học lịch sử.
Tất cả các pho chính sử chỉ cho chúng một thông tin rất vắn tắt mơ hồ về bà mẹ của Đức Lí Thái Tổ rằng: Bà họ Phạm, một hôm đi lễ chùa Tiêu Sơn (cũng là chùa Thiên Tâm, chùa Lục Tổ, hay chùa Tràng Liêu – tức chùa Tiêu, xã Tương Giang, thị trấn Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nay) gặp người thần giao cảm mà sinh ra vua. Tấm bia Lí gia linh thạch (được soạn vào thượng tuần tháng 4 năm Cảnh Thịnh nguyên niên, 1793) tại chùa Tiêu là tài liệu có sau sự kiện tới hơn tám trăm năm nhưng là tài liệu duy nhất đưa lại thông tin cụ thể hơn, văn bia có đoạn: “Thiên Tâm tự tự chủ tộc tăng lí vạn hạnh cổ pháp nhân dã đặc đông ngàn hoa lâm nhân phạm mẫu tiêu dao kì tự thường kiến nhất thần hầu bất giác hữu thần …”.
Khi bàn về quê hương của bà Phạm thị, các tham luận trong Hội thảo Làng Dương Lôi với vương triều Lí đều dịch đoạn văn bia trong Lí gia linh thạch là: “Chùa Thiên Tâm, trụ trì là sư Lí Vạn Hạnh, người Cổ Pháp. Đặc biệt, phía đông bên tả ngạn có bà Phạm thị người ở Hoa Lâm khi lên chùa hương nhang thường thấy một vị thần hầu, nhân đó thụ thai …”. Nếu lấy chùa Thiên Tâm (chùa Tiêu) làm chuẩn nhìn về phía trước, thì phía đông, bên tả sông Tiêu Tương (chảy qua làng) có địa danh Hoa Lâm (thuộc thôn Dương Lôi nay, nhưng chỉ còn trong trí nhớ dân gian), kết hợp với truyền thuyết, hiện vật khảo cổ … các tác giả đi đến kết luận Dương Lôi chính là quê hương của thân mẫu Đức Lí Thái Tổ.
Theo chúng tôi, cách hiểu và dịch đoạn văn bia trên như vậy là chưa thỏa đáng, và đi đến nhận định có phần khiên cưỡng.
Vùng Cói xưa ven sông Đuống (được Hán hóa, vùng thành tổng Cối Giang, rồi kị húy mà thành Hội Giang, Hội Phụ), với trung tâm là làng Cói – Hoa Lâm, nơi tọa lạc ngôi chùa cổ Diên Phúc. Trên vùng đất Mai Lâm, Thái Bình nay còn đậm đặc những địa danh, di tích, phong tục tập quán … khẳng định nơi đây là Thái Đường (thờ bên ngoại) nhà Lí, nơi đặt hành cung của các vua thời Lí, và cũng là nơi ghi lại dấu ấn đau thương trong buổi trao chuyển vương triều cuối Lí đầu Trần với địa danh Bãi Sập. Sách Đại Việt sử kí toàn thư còn ghi rõ, mùa đông năm 1232 khi tôn thất nhà Lí về “lễ tế tổ tiên ở Thái Đường, Hoa Lâm” đã bị Trần Thủ Độ “ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết”. Người đời sau còn thấy khu lăng mộ nhà Lí (Lí gia lăng), có đền thờ âm hồn tôn thất họ Lí …
Lí Công Uẩn định đô ở Thăng Long, sông Thiên Đức/Đuống được khơi thông, cùng với các chi lưu của nó, là mạng lưới giao thông đường thủy huyết mạch nối liền giữa Kinh Thành với vùng văn hóa Kinh Bắc, với quê mẹ (Hoa Lâm) và quê cha (Dương Lôi – Cổ Pháp). Một dẻo ven sông kéo dài từ ngã ba nơi sông Đuống ăn nước sông Hồng tới Mai Lâm trở nên sầm uất, dân phong vật thịnh, trở thành cơ sở của nhà Lí khi có sự biến nơi cung đình, như xóm Bến, Đông Ngàn (lấy tên xã làm tên huyện), Hoa Lâm, Du Lâm … Chẳng thế mà, để tránh loạn Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi và sự o ép của thế lực họ Trần, năm Nhâm Thân (1212) vua Lí Huệ Tông đã cùng Đàm Thái hậu chạy về nương nhà đại thần Đỗ Thưởng ở Đông Ngàn để chuẩn bị lánh sang phía bắc, quan quân nắm lấy cương ngựa khấu đầu ngăn lại, sáng sau Trần Tự Khánh đích thân đến bến Đông Ngàn đón vua về triều (Việt sử lược). Là một trung tâm văn hóa kinh tế quan trọng, địa danh Hoa Lâm, Đông Ngàn được nhắc tới nhiều trong các thư tịch cổ từ thời Lí – Trần cho tới cuối Lê đầu Nguyễn, gắn liền với tên tuổi sự nghiệp của những nhà văn hóa, những tiến sĩ nổi tiếng. Điều này đã được nhà sử học Thích Bảo Nghiêm chứng minh thuyết phục trong tham luận của mình tại Hội thảo Chùa Diên Phúc với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Như vậy, với một sự kiện đặc biệt quan trọng (về quê quán của một vị Quốc mẫu), với một địa danh nổi tiếng như Đông Ngàn, Hoa Lâm, không lẽ người viết văn bia Lí gia linh thạch lại bất cẩn, định vị một cách mơ hồ như một số người đã hiểu? Được củng cố bằng nguồn tư liệu từ địa danh học lịch sử và các nguồn tư liệu gián tiếp khác, chúng tôi cho rằng văn bia Lí gia linh thạch đã chỉ ra rõ ràng, chính xác quê hương của bà Phạm thị, thân mẫu của vị vua khai sáng triều Lí như sau: “Chùa Thiên Tâm, trụ trì là sư Lí Vạn Hạnh, người Cổ Pháp. Đặc biệt có bà Phạm thị, người ở Hoa Lâm huyện Đông Ngàn, khi lên chùa hương nhang thường thấy một vị thần hầu, nhân đó thụ thai…”. Thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn xưa chính là thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội nay.
Chùa Diên Phúc thuộc thôn Thái Bình, cách trung tâm thành phố khoảng 10km về phía Bắc, ven sông Đuống và cạnh đường đi đến thị trấn Đông Anh. Chùa tiếp giáp với đình làng Thái Bình, quay về hướng Nam. Đình làng còn lưu đôi câu đối, là niềm tự hào về vùng đất địa linh nhân kiệt của mình.
Mạch tụ quân vương truyền thắng địa
Tích lưu Lí mẫu quán danh phương.
Nằm trên mảnh đất quê ngoại của vương triều Lý rất sùng đạo Phật, tương truyền chùa Diên Phúc được xây dựng từ thế kỷ XI và tồn tại liên tục cho tới ngày nay. Tấm bia Hoa Lâm Tam bảo thị (華 林 三 寶 巿) dựng năm Thịnh Đức thứ 4 đời Lê Thần Tông (1656) cho chúng ta biết chùa Hoa Lâm – Làng Cói – Diên Phúc xưa là trung tâm sinh hoạt tâm linh – văn hóa – kinh tế sầm uất độc đáo của cả vùng (Chợ chùa). Theo bài Minh trên quả chuông đồng “Diên Phúc tự chung” (chuông chùa Diên Phúc) đúc ngày lành, tháng giêng, năm Minh Mệnh thư hai (1821) thì chùa Diên Phúc ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn, Phủ Từ Sơn, Trấn Kinh Bắc. Từ năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống nguyên niên (1887) có sự biến động lớn, do nhu cầu cấp thiết đúc tiền nên đã thu chuông đồng khắp thiên hạ, do đó chuông chùa Diên Phúc cũng bị thu, năm Minh Mệnh thứ hai, Trụ trì chùa Tỷ Khiêu Diệu Bảo Thích Lãng đã phát nguyện tâm phúc, khuyên dân trong ấp cùng thiện nam, tín nữ thập phương quyên góp của cải mua đồng, thuê thợ về đúc quả chuông “Linh Ứng tự chung”. Dươi thời Nguyễn, chùa được quan tâm tu sửa nhiều lần.
Trong kháng chiến chống Pháp chùa là nơi lưu truyền nhiều chiến công chống giặc ngoại xâm và bảo vệ tổ quốc. Trong giai đoạn 1946-1954, ngôi chùa này được chọn làm cơ sở hoạt động cách mạng, nơi nuôi giấu nhiều cán bộ kháng chiến. Sư cụ Đàm Tín, trụ trì chùa, trực tiếp tham gia Mặt trận việt Minh. Nhiều lần, thực dân Pháp và Ngụy quyền tổ chức vây ráp, nhưng nhờ sự che chở của nhà chùa, sự đấu tranh khéo léo của sư trụ trì mà cơ sở cách mạng địa phương được giữ vững ngay trước mắt kẻ thù. Cũng thời gian này, chùa còn là nơi đón tiếp nhiều Đảng viên, cán bộ Việt Minh, gia đình cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã được mái chùa che chở trong thời kỳ chiến tranh.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ở miền Bắc (1964-1974), chùa Diên Phúc được chọn làm kho hậu cần để tiếp viện cho các đơn vị Bộ đội bảo vệ thủ đô, là nơi sơ tán của một số cơ quan Trung Ương và Thành phố Hà Nội.
Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, với bề dày lịch sử và truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, ngày 8 tháng 2 năm 1992 chùa Diên Phúc đã được Sở văn hóa Thông tin và Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội xếp hạng Di tích Lịch sử- Tôn giáo. Ngày 31.01.1992 chùa đã được Bộ Văn hoá và thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật
Thế nhưng không có cái gì tồn tại vĩnh cửu bởi định luật vô thường, sự biến thiên của thời cuộc. Trải qua bao năm tháng do nhiều lần lũ lụt, thiên tai tàn phá, chiến tranh loạn lạc và sự thay đổi dòng chảy của sông Đuống, chùa Diên Phúc đã bị xuống cấp, hư hại, nhiều cổ vật quý trong chùa bị nước cuốn trôi … nên vào năm 1987 chùa đã được di dời về địa điểm mới hiện nay.
Năm 2002, với tâm lực, nguyện lực của nhà Chùa, được sự ủng hộ nhiệt tâm của các cấp hữu quan từ Trung ương cho đến địa phương cùng với tấm lòng hảo tâm của tín đồ Phật tử thập phương, hiệp lực đồng tâm nhất trí cải tạo đại trùng tu toàn diện ngôi Đại Hùng Bảo Điện, nhà Mẫu, cổng Tam quan. Phật tử gần xa đến lễ Phật và chiêm ngưỡng cảnh chùa trong khung cảnh vô cùng trang nghiêm thanh tịnh.
Chùa Diên Phúc có khuôn viên khá rộng, cách thức bài trí trong chùa thích nghi theo phong thuỷ có những tấm bia cổ bia phản ánh về lịch sử và văn hóa của Chùa. Đặc biệt những di vật còn lưu trữ từ thời Hậu Lê như: một quả chuông, một tượng Quan Âm, một tòa Cửu Long, một tượng Đức Thánh Trần, một tượng Đức Vua cha Ngọc Hoàng, 10 vua Thập điện, 3 tượng Tam Thế, 3 tượng Tổ. Tượng mới có: một pho Di Đà, hai pho Hộ Pháp, một tượng Quan Âm Bồ Tát, một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, một tượng Địa Tạng Bồ Tát. Chùa Diên Phúc vốn là nơi di tích lịch sử nên hàng ngày khách thập phương thường đến tham quan, chiêm ngưỡng lễ bái rất tôn kính và nhộn nhịp. Chùa Diên Phúc đã khởi sắc linh thiêng do đức tin và lòng tín ngưỡng của đồng bào Phật Tử, nhà chùa đã tổ chức nhiều khoá tu trong năm cho các tín đồ Phật tử tu hành niệm Phật. Ngoài việc hoằng pháp, chùa Diên Phúc còn là một trong những địa điểm thực hiện công tác Từ thiện tích cực của giáo hội Phật giáo Đông Anh. Hàng năm, Chùa thường xuyên tổ chức các hoạt động ủng hộ dân nghèo, gây quỹ nhân đạo, khơi dậy lòng người vào tập đoàn nhân ái, khuyến tấn mọi người gia nhập Hội chữ thập đỏ. Quý chư Ni trong Chùa cùng Phật tử tích cực tham gia công tác từ thiện hỗ trợ đồng bào bão lụt, các phong trào từ thiện, phong trào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, nhận nuôi, chăm sóc cho trẻ em mồ côi và người già neo đơn trong vùng, nhằm đem lại an vui hạnh phúc cho mọi người.
Đây là những việc làm giàu ý nghĩa tốt đời đẹp đạo của Chùa Diên Phúc nhằm phát huy giá trị tích cực của một di tích lịch sử văn hoá Phật giáo gắn với quê hương Lý Thái Tổ nói riêng và gắn bó với dân tộc Việt Nam, Thăng Long – Hà Nội nói chung. Thật không ngoài ý nghĩa của câu nói dân gian:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”
Chùa Diên Phúc hôm nay thật đẹp, đẹp không vì nguy nga, không vì lộng lẫy kiêu sa mà chính là nét đẹp cổ kính, dưới ánh nắng vàng, mái chùa nổi bật vẻ dịu hiền trầm lắng. Kiểu kiến trúc cổng Tam quan làm tăng vẻ trang nghiêm, hùng vĩ của ngôi chùa; sân chùa được lát bằng gạch cốt tô Hạ Long, màu gạch trông như nửa cổ nửa kim. Giữa sân Chùa là một cây hoa lan được trồng dường như chắn lối ra vào thuộc về phong thuỷ, một điện Quan Âm được xây dựng giữa sân theo kiến trúc văn hoá Phật giáo, hoa văn hiện đại. Một hồ sen trong vắt dưới chân Phật Bà, đó là một loài hoa thanh cao, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Hoà quyện hương trầm với không khí tịch mịch của ngôi chùa làm tâm hồn người lữ khách lâng lâng xao xuyến, man mác gợi nhớ quê hương, vào những đêm trăng thanh, sân chùa trở nên huyền diệu, dân làng đi lễ chùa khá đông
Tiếng chuông chùa Diên Phúc như nước cành dương xoá tan bao ưu sầu, phiền não trong nhân thế. Tiếng chuông thong thả như khuyên nhủ an ủi tâm hồn mọi người, âm thanh nhè nhẹ như vỗ về, làm cho dục vọng vơi đi, chỉ còn lòng từ bi khoan dung tha thiết của tình người, không còn bóng dáng tham lam ích kỷ, không còn chạy theo danh lợi, vinh hoa phù phiếm.
Chùa Diên Phúc là một điểm son lịch sử, là một ngôi chùa tiêu biểu của Phật giáo thời Lý, là nơi không chỉ thực hiện chức năng tín ngưỡng tôn giáo mà còn là nơi bảo tồn, truyền bá những giá trị văn hoá lâu đời, tốt đẹp của dân tộc, nơi giáo dục, nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết, nhân ái không chỉ cho cộng đồng thôn dân Thái Bình, Xã Mai Lâm huyện Đông Anh, mà cho cả cộng đồng của Thủ đô Hà Nội cũng như nhân dân cả nước đã và đang với tư thế hân hoan chào đón “Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” .