hacklink al hack forum organik hit film izle
Thu, 23/ 10/ 2025

Thờ Phật vững tin vào giá trị làm người

05/ 12/ 2017 09:30:34

Thờ Phật vững tin vào giá trị làm người

         Cư sĩ Trần Ngọc Hằng

 

Từ xưa đến nay, nhân loại đã có nhiều học thuyết cho việc tìm kiếm lợi ích, tìm tới sự an vui. Trong đó có những học thuyết:

– Hướng con người chăm lo bồi dưỡng đức tin, cầu  mong được Thần linh hay Đấng tối cao cứu độ, theo các trường phái đa thần hoặc độc thần cũng đều có xu hướng khích lệ con người vào việc cầu xin.

  • Hướng con người tuân theo trật tự của tạo hoá, lý giải nhiều về việc thịnh suy của thời thế và nhân quần, làm cho con người chuyên tâm nhiều vào những biến đổi thời vận, hướng vào việc cải tạo hoàn cảnh.
  • Hướng cho con người hành động triệt phá sự khác biệt, gắng tạo ra sự đồng đều, nuôi dưỡng niềm tin thoát khỏi khổ đau, áp bức.

Trong thế kỷ vừa qua nhân loại hướng vào việc khai thác tự nhiên, làm nên sự phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão, tạo ra khối lượng vật chất tiêu dùng khổng lồ. Song nhân loại luôn luôn bất an: do chiến tranh bạo lực gia tăng, do tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, môi trường sinh thái trở nên khắc nghiệt. Tất cả đã tạo ra sự quá tải đè nặng nên trái đất – cái nôi tạo ra sự sống, nay đã đến hồi kêu cứu.

Các học thuyết thường nhấn mạnh việc khích lệ con người tác động cải biến điều kiện xã hội và điều kiện tự nhiên, theo chiều hướng ra ngoài là chủ yếu. Riêng có Đạo Phật tập trung cao vào việc phát động những tiềm năng bên trong của con người, theo chiều hướng vào trong là chủ yếu. Điều này đã được nhiều kinh sách Phật giáo giải quyết thấu đáo.

Để bày tỏ lòng thành kính trước chân lý cao siêu tuyệt diệu của Đức Phật, người viết xin được nêu ra những điều ngộ biết, mong được sự tham kiến của các độc giả.

  1. Lời tuyên bố cao cả thiêng liêng của Đức Phật với toàn thể nhân loại “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”

Đức Phật là “Bậc tối thượng độc tôn trên trần thế”, thấy biết được chân lý tuyệt đối, bằng khả năng thần thông đã nhìn thấu tất cả, chỉ cho nhân loại cái quí giá nhất ở trong con người đó là tính thấy biết, chỉ cho con đường tu tiến chuyển hoá thoát khỏi khổ đau phiền não, u mê.

Ngày nay các lĩnh vực khoa học như:Triết học, Tâm lý học, Sinh học, Y học, Nhân chủng học, Khảo cổ học v.v nghiên cứu về con người đều có chung nhận thức: con người là tổng hoà hoàn thiện cao nhất các mối quan hệ trong  tự nhiên và xã hội, con người là sự tiến hoá cao nhất của sự sống. Với những sự khám phá mới nhất về tâm sinh lý con người càng làm sáng tỏ điều Đức Phật đã chỉ bày. Những điều cao quí trong con người có muôn vàn dẫn chứng, xin nêu vào những vấn đề chính sau:

  • Thân thể con người có độ cơ động rất cao, do tứ chi phát triển có thể tạo ra nhiều tư thế hình dáng tĩnh động khác nhau. Trong đó đáng chú ý nhất là tư thế ngồi kiết già thiền định, cột sống vuông góc với mặt đất, tứ chi thu gọn, trường năng lượng tập trung cao, hạn chế tối đa sự suy hao năng lượng, theo xu hướng sẵn sàng toả phát năng lượng khai thông năng lượng giữa thân thể con người với vũ trụ.

– Khả năng lưu giữ thông tin và xử lý thông tin rất cao được thể hiện qua:

Hệ thần kinh có những trung tâm lớn như ở não, tuỷ sống và các dây thần kinh lan toả khắp cơ thể, ước chừng khoảng trăm nghìn tỷ tế bào thần kinh (1014), là những nơron thần kinh có dạng hình thoi bị phân cực sắp xếp theo trật tự nhất định ví như các mạch trigơ trong bộ chuyển đổi trạng thái lạp thoát, có số lượng hơn rất nhiều số lượng trong bộ nhớ bộ vi xử lý của máy tính hiện đại, thực hiện chức năng duy trì các phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện, duy trì hoạt động tâm sinh lý và ý thức con người.

Ta đã biết rằng trong cơ thể có những mạch chuyển dẫn, ở dạng cơ học như sự đàn hồi của các bắp cơ đường gân, sự lưu chuyển của đường máu, của các tuyến nước, của các luồng khí và sự truyền dẫn của các tín hiệu trong hệ thần kinh tạo ra nhiều dòng chuyển động có hướng hình thành nên trường ảnh hưởng xung quanh (thuộc dạng vô hình tạm gọi là trường khí) mà đặc trưng cho tác dụng là những đường kinh lạc lan toả khắp cơ thể, đáng chú trọng nhất là ba đường (đường trung ương, đường trái, đường phải nằm dọc cột sống); các đầu mối giao kết của các đường kinh lạc tạo thành những hạch huyệt và luân xa (nơi kết tụ tạo lập các nguồn năng lượng mang tin). Khi kích thích vào các huyệt hạch (châm cứu) lấy lại sự thăng bằng hoạt động cho các cơ quan trong cơ thể. Đáng chú ý nhất là năm luân xa xếp theo chiều thẳng đứng từ đỉnh đầu xuống đốt xương cụt. Đó là:

Luân xa đỉnh đầu còn gọi là luân xa đại lạc sẽ làm cửa mở giữa thân thể con người liên thông với vũ trụ. Luân xa cuống họng còn gọi là luân xa thụ động ảnh hưởng đến các bộ phận tuyến giáp trạng, amidam, tuyến nước bọt và các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi và khoang phát âm trong miệng. Luân xa tim còn gọi là luân xa trí tuệ ảnh hưởng đến các bộ phận tuyến ức, tim, phổi và các cảm xúc. Luân xa rốn ảnh hưởng đến các bộ phận lá lách, gan, tuỵ và các tuyến thượng thận, đảm bảo chức năng chuyển hoá năng lượng. Luân xa xương cùng ảnh hưởng đến sinh duc và sinh sản.

Khi các luân xa chính chuyển hướng từ chi phối hoạt động lan toả điều hành thân tâm mở ngả về phía trục đường trung ương, làm cho dòng vận chuyển trường khí ở đường kinh lạc trung ương và đường kinh lạc trái phải mạnh lên, dễ tạo ra sự phát toả trên đỉnh đầu để liên thông với vũ trụ.

  • Khả năng biến hoá năng lượng của con người rất đa dạng, từ nguồn thực phẩm, nước, không khí, các tia sóng vũ trụ, các tác dụng của môi trường sinh thái, đã qua những chu trình biến đổi hết sức phức tạp, cung cấp năng lượng để ổn định thân nhiệt, cung cấp năng lượng cho sự vận chuyển của các cơ bắp trong cơ thể. Quan trọng hơn là tạo ra nguồn năng lượng tinh chất rất linh hoạt, cung cấp năng lượng cho sự hoạt động của hệ thống thần kinh, hệ thống đường kinh lạc hạch huyệt luân xa, duy trì hệ thống điều hành hoạt động của cơ thể. Với các bậc cao tăng đắc đạo có nhiều kinh nghiệm trong việc vận chuyển chu trình năng lượng tinh chất linh hoạt, còn có thể thu hút năng lượng vô hình để khai thông mở mang trí tuệ.

Để khái quát lại tiềm năng trong cơ thể con người, ta theo nguyên lý của Phật giáo: Tâm là tất cả, tất cả được quy về tâm. Đã có nhiều tài liệu Phật giáo phân định hoạt động cơ thể con người ra các loại tâm sau:

– Tâm thô đặc trưng  hoạt động cơ thể về phần biến đổi ở nhip điệu thấp như xương thịt, các cơ quan theo giải phẫu của y học: hệ tiêu hoá, hệ tuần hoàn, hệ bài tiêt, hệ hô hấp, hệ tiết niệu, hệ sinh dục v.v. Tâm thô thuộc phạm trù tứ đại (đất nước gió lửa), tạm hiểu như quan niệm về vật chất.

  • Tâm tế đặc trưng hoạt động cơ thể về phần lưu giữ thông tin, xử lý thông tin, điều hành những phản xạ không điều kiện và có điều kiện, bồi đắp trí thức của con người ở trình độ nhận thức chân lý tương đối. Tâm tế thuộc phạm trù (ý thức, tâm lý, kiến thức),tạm hiểu như quan niệm về tinh thần.
  • Tâm vi tế đặc trưng cho việc chi phối hoạt động của tâm thô và tâm tế. Tâm thô và tâm tế là nguồn cung cấp năng lượng tinh chất linh hoạt cho tâm vi tế chẳng khác nào như các máy thu phát tín hiệu vô tuyến điện, đã biến nguồn năng lượng ở tần số thấp hay một chiều thành nguồn năng lượng siêu cao tần mang theo tín hiệu thông tin được điều chế bức xạ vào không trung. Tâm vi tế không thể bằng ngũ quan hay các phương cụ của khoa học thực nghiệm phụ trợ để nhận biết, mà phải bằng tư duy thiền định mới có thể thấy biết được. Ta tạm dùng cách suy luận của vật lý học: coi dạng hạt là kết tụ nguồn năng lượng mang thông tin như các chủng tử là những thành tố của tâm thức, coi dạng sóng như sự sinh diệt liên tục (đặc trưng cho sự biến đổi không ngừng và sự truyền dẫn năng lượng mang tin), để có những cơ sở lý giải bước đầu về hoạt động của tâm vi tế trong trường tâm linh.Tâm vi tế vừà mang dấu ấn của cái cụ thể riêng lẻ phản ánh tâm thức của từng người, vừa sẵn sàng thoát ra để lưu chuyển vào tầng giới của vô vàn sinh linh hoạt động trong trường tâm linh.
  1. Qua nhiều tiền kiếp luân hồi được làm người là điều đáng quý

Luân hồi là giáo lý quan trọng của đạo Phật, chỉ rõ thực chất của sự sống, giúp ta thấy hiểu về mình một cách rốt ráo. Trong sự vận hành của quy luật nhân quả, từ nhân được vận hành ra kết quả là do nghiệp lực, nhân và quả là hai trạng thái kế tiếp của một chu trình hành chuyển. Sự sống là sự vận động không ngừng nghỉ của quy luật nhân quả, sự biến đổi liên tục của các mối quan hệ nhân duyên, khi tụ hợp là có là sinh, khi ly tán là không là tử. Ngay là tử cũng là sự chuyển đổi kết thúc trạng thái sinh tồn này chuyển sang trạng thái sinh tồn khác. Như vậy sự sống có động lực nằm ngay trong sự sống, chứ không bị chi phối bởi đấng tối cao nào khác, và chết cũng không phải là hết. Đây là nét khác biệt cơ bản của Phật giáo với các trường phái khác khi luận giải về sự sống chết. Tại đây xin cùng các độc giả ôn lại chu trình luân hồi mà Đức Phật đã giảng bầy cho chúng ta về 12 nhân duyên(trong mỗi một mắt xích vừa là duyên của trước, vừa là nhân của sau), đó là:

1 Vô minh – 2 Hành – 3 Thức – 4 Danh sắc – 5 Lục nhập – 6 Xúc – 7 Thụ – 8 Ái – 9 Thủ – 10 Hữu  – 11 Sinh – 12 Lão tử.

Trong chu trình này chia 3 thời:

  • Thời quá khứ (kiếp trước): Nhân quá khứ là vô minh biểu trưng cho: điều không nhận ra thực tướng của sự vật, điều chưa được trải nghiệm vội cho là chân lý; hành là nghiệp lực của quá khứ thúc đẩy tìm tới tái sinh.
  • Thời hiện tại (kiếp này): Thức biểu hiện cho sự nhập thai: là sự kết hợp khởi đầu giữa tinh cha với huyết mẹ và thân trung ấm (thân trung gian giữa hai kiếp, ví như nhóm năng lượng bức xạ mang tin); Danh sắc biểu hiện sự hình thành thân thể (sắc) và tinh thần (danh). Lục xứ là sự hình thành 6 giác quan trong bào thai. Từ khi ra khỏi bào thai: Xúc là biểu hiện giao tiếp với môi trường thiên nhiên và xã hội; Thụ sự lĩnh nạp phát triển kiến thức; Ái là sự tham luyến yêu thích; Thủ là sự giành giữ; Hữu là sự chiếm đoạt mong được duy trì kế tiếp. Chú ý nhất vào 3 trạng thái (ái – thủ – hữu) điều do tự mình mà hình thành, điều này gọi là hành nghiệp mà khởi đầu là ái.
  • Thời vị lai (kiếp sau): từ hành nghiệp hiện tại đã đưa thân trung ấm vào cõi sinh trong tương lai, lại tiếp diễn theo một chu trình mới, gồm có: sinh ra được trụ lại với cái thân tâm biến đổi (lão) rồi sau cũng phải kết thúc (tử) để có chuyển tiếp mới.
  • Xét thấy trong 12 nhân duyên, có hai nhân duyên thuộc kiếp trước cho biết từ đâu tới, hai nhân duyên thuộc kiếp sau cho biết rồi sẽ đi về đâu. Còn tám nhân duyên ở kiếp này chỉ ra: trách nhiệm của gia đình tạo ra thể chất tốt, trách nhiệm của cộng đồng tạo ra môi trường sống tốt, trách nhiệm của bản thân tạo ra động lực sống tốt.

Trong chu trình liên tiếp của vòng quay luân hồi ta xét một khâu mắt gồm (nhân – hành – quả), nhân có gốc là vô minh; quả có dấu tích của vô minh. Nếu lấy mốc thời kiếp hiện tại là t0 , quá khứ thời kiếp kế tiếp là t-1, quá khứ thời kiếp vô thủy là t-n, vị lai thời kiếp kế tiếp là t1 và vị lai thời kiếp vô chung là tn.

Ta lập thành dãy luân hồi như sau:

(Nhân – hành – quả)  t-n….(Nhân – hành – quả) t-1– (Nhân – hành – quả) t0  -Nhân – hành – quả) t1. …..(Nhân – hành – quả) tn. Nhân có gốc từ vô minh, hành do từ (ái – thủ – hữu) mà có, quả cũng từ nhân qua hành mà có.

Qua nhiều kiếp luân hồi, từ vô thủy đến được kiếp làm người là điều cực kỳ hiếm thay. Trong kiếp làm người với việc hành nghiệp cân bằng thiện ác còn có hy vọng được làm người kế tiếp. Nếu tích phải nhiều điều bất thiện sẽ bị đoạ đầy vào nhiều kiếp thấp như: súc sinh, ngã quỷ, địa ngục, Atula. Nếu tích được nhiều điều thiện sẽ được siêu thoát về các cõi trên như các bậc tiên thánh. Ngay từ kiếp này việc hành nghiệp thiện giúp ta thoát khỏi tham đắm u uất nặng nề.

Với cách lý giải của quy luật luân hồi cho ta thấy:

  • Sự sống được tiến hoá từ thấp đến cao, sự tiến triển của sinh lý, tâm lý, trí tuệ theo chiều hướng tiến về phía cao hoàn thiện. Hành nghiệp chính là động lực của sự tiến triển đó.Trong khoảng không thời gian xác định thì hành nghiệp là sự diễn trình của sự sống, hay nói cách khác sự sống là trải nghiệp.

Do vậy, cái lớn nhất trong nhân sinh Phật giáo là giải quyết vấn đề hành nghiệp, điều này có ngay trong hiện tại, không phải truy tìm trong quá khứ, không phải vọng tưởng đến tương lai. Hiện tại chứa đựng cả rồi, vừa là quả của khứ, vừa là nhân của tương lai. Hiện tại đại diện cho cái đã qua và cái sắp tới,đại diện đến mức độ nào là do ta thiết lập khoảng thời gian xác định. Do vậy tập trung giải quyết vấn đề hiện tại là giải quyết tổng thể, hiện tại phát sinh tốt sẽ có tương lai tốt. Tinh thần tích cực của Phật giáo là sự chuyển hoá ngay hiện tại, tu là chuyển nghiệp từ mê sang ngộ, là đoạn trừ vô minh, là cạo bỏ lớp bụi bám che lấp chất tinh sáng trí tuệ của giá trị cao cả làm người, là giải thoát khỏi khổ đau phiền não. Khác hẳn sự mơ hồ đứng ngoài cuộc cho Phật giáo là yếm thế, là thụ động. Phật giáo chú trọng phương pháp chuyển hoá bằng cải biến nội tâm, không đề cao phương pháp chuyển hoá bằng bạo lực, chỉ có tình thương mới chấm dứt được hận thù,thắng chính mình mới là cái thắng cao cả nhất.

Trong hành nghiệp, Phật giáo đề cập ba vấn đề lớn: thân hành, khẩu hành, ý hành. Đây chính là ba vấn đề thường trực nằm sẵn trong chúng ta, là nguyên nhân sâu xa của lầm lạc u mê che lấp những giá trị cao cả làm người. Giáo lý của Đạo Phật hướng cho chúng sinh luôn sống tỉnh thức trong hành nghiệp như là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lươn lẹo, không nói hai lời, không nói gây bất hoà, không tham dục, không sân hận, không si mê. Đây là những điều mang tính giới luật được thực hiện trên tinh thần tự giác tự nguyện, sẽ mang lợi lạc cho chính mình. Giới luật của Phật giáo được thực thi do chính mình và chỉ có chính mình mới cảm nhận hết được lợi lạc, có phần khác với Pháp luật hay tục lệ trong việc thực thi đôi khi đòi hỏi sự tuân thủ ép buộc vì lợi ích của tầng lớp thống trị hay lợi ích của số đông. Khi đã chú tâm hành nghiệp thiện thì tinh thần bi mẫn và trí tuệ sẽ được phát sáng như ngọc báu trong ta, tiềm năng quý giá trong con người được khai mở.