Ảnh hưởng của Thiền Sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập (938 – 1009) (Ni sinh Thích Diệu Ngọc)

13/ 04/ 2018 15:34:18

A. DẪN NHẬP

  1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử của dân tộc Việt Nam không chảy theo một dòng êm đềm phẳng lặng mà là một dòng thác sôi trào với đá ghềnh non cao hùng vĩ, có những chặng băng qua cao nguyên, luồn trong rừng già sâu thẳm đại ngàn, hay oằn mình trên sa mạc cháy bỏng để quyết ươm mình đổ ra biển cả của hạnh phúc, tự do, độc lập. Đạo Phật theo dòng sinh mệnh lịch sử, cùng nếm sương nằm lá, cùng thất bại đắng cay và cùng phất cao ngọn cờ chiến thắng oanh liệt với dân tộc. Mà trong đó, chúng ta không thể nào không nhớ tới giai đoạn gần 1000 năm Bắc thuộc sống trong tối tăm bùn lầy đau khổ, đạo Phật cùng với dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành lại quyền tự chủ cho nước nhà, lại cùng nổi chìm theo thế thời vận cuộc rồi âm thầm sống kiên cường, cho đời sau và phát triển.

Đó là thời Phật giáo Ngô – Đinh – Tiền Lê, nói tới Phật giáo thời kì này là phải nói đến một nền văn hóa Việt đã từng thấm đẫm tư tưởng bình đẳng, trí tuệ, từ bi, phải nói tới chân dung của những vị cao tăng tiền bối, những vị danh tăng dựng đạo, cứu nước luôn kiên trì, tinh tiến tu học là những nhân cách lớn, những chí khí tư tưởng cao đẹp cho hàng hậu học noi theo. Có các thiền sư tiêu biểu như: Thiền sư Khuông Việt, thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Đại Tư. Trong đó thiền sư Khuông Việt nổi lên như  một nhà tri thức lớn, một nhà văn hóa tài năng của đất nước, Ngài tinh thông tam giáo Nho, Phật, Lão, đã phục vụ đầy hiệu quả công cuộc bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc đầu kỷ nguyên độc lập.

Việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam bởi thế đã có nhiều công trình nghiên cứu, tuy nhiên không phải giai đoạn lịch sử Phật giáo nào cũng được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích một cách đầy  đủ, hệ thống rạch ròi mà tiêu biểu là thời đại Ngô –  Đinh – Tiền Lê. Do đây là một giai đoạn lịch sử bản lề từ thời kỳ mất chủ quyền bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, tuy ngắn ngủi nhưng lại chứa đầy ắp những sự kiện lịch sử cần phân tích, làm rõ. Phân tích sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn này là hết sức quan trọng. Đặc biệt, là ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.

Hiện nay, đất nước ta đang ở giai đoạn đầu của hội nhập kinh tế thế giới, của thời kỳ quá độ trong việc xây dựng và hoạch định phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa theo cơ chế thị trường với những khó khăn và thách thức rất lớn. Vì vậy Đảng và Nhà nước đặc biệt là các nhà khoa học cần có những nghiên cứu từ trong truyền thống các kinh nghiệm lịch sử đưa ra kiến giải hợp lý để làm bài học đưa đất nước có nền kinh tế, khoa học và cả văn hóa không ngừng đi lên.Tuy nhiên để có thể đưa ra những kiến giải khoa học, một mặt chúng ta cần phải dựa trên những lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng mặt khác cần phải đào sâu tìm hiểu lại lịch sử văn hóa của dân tộc để đúc rút, học hỏi những bài học kinh nghiệm của ông cha ta để lại. Và người viết thiết nghĩ tìm hiểu về sự ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Điều đó  không những góp phần giúp chúng ta tìm hiểu tinh hoa tư tưởng và văn hóa dân tộc trong quá khứ mà còn giúp ta có một cái nhìn khách quan về vị trí của Phật giáo trong các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam.

Chính vì những lý do nêu trên mà người viết lựa chọn vấn đề tìm hiểu: “Ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập” làm đề tài luận án tốt nghiệp của mình.

  1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.

Lịch sử Phật giáo truyền vào nước ta từ những thế kỷ đầu công nguyên, đến nay đã ngót 2000 năm. Qua thời gian dài Phật giáo đã để lại cho dân tộc ta nhiều dấu ấn, có thể thấy từ tín ngưỡng đến văn hóa, phong tục tập quán đến tư tưởng chính trị, từ  luật pháp đến tình cảm. Với ảnh hưởng lâu dài, sâu rộng của Phật giáo ở nước ta cho đến ngày nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam nói chung, đóng góp của Phật giáo cho tư tưởng Việt Nam, văn hóa Việt Nam mà điển hình là các công trình sau:

Tác phẩm được cho là công trình nghiên cứu sớm nhất về tinh hoa Phật giáo Việt Nam lưu truyền cho đến ngày nay là tác phẩm “Thiền uyển tập anh”. Đây là công trình tập trung nghiên cứu truyền thừa hai dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông với những đại diện là những thiền sư cụ thể. Tuy nhiên tác phẩm này lại chưa đi sâu tìm hiểu và đánh giá về các mặt đầy đủ, ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.

Đến thế kỷ cận hiện đại ở nước ta có hai công trình nghiên cứu về Phật giáo là “Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII” của Trần Văn Giáp, “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Thích Mật Thể. Hai cuốn sách này đã mang những giá trị nhất định đều đáp ứng phần nào đó yêu cầu hiểu biết về lịch sử Phật giáo tại Việt Nam của người đương thời, đều để lại những kiến thức và kinh nghiệm cho những người nghiên cứu Phật giáo về sau. Tuy nhiên hai công trình này với số lượng trang có hạn nên khi trình bày về lịch sử Phật giáo rất hạn chế nói về tình hình đất nước đầu kỷ nguyên độc lập và ảnh hưởng của các thiền sư.

Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Nguyễn Lang đã cho xuất bản cuốn sách “Việt Nam Phật giáo sử luận” gồm 3 tập với dung lượng gần 1200 trang viết về sự du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến giữa thế kỷ XX. Cuốn sách đã viết rất chi tiết và cụ thể về từng giai đoạn nhất là trong giai đoạn bước đầu du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam, đặc biệt là hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Tác giả đã phân tích chỉ rõ vị trí và vai trò của từng nhà sư đối với sự phát triển của Phật giáo nói riêng và đất nước nói chung. Tuy nhiên công trình này lại ít đề cập cụ thể đến diện mạo giai đoạn Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê mà lại trực tiếp đi tìm hiểu Phật giáo thời Lý – Trần. Chưa có một hệ thống sâu sắc riêng biệt viết về công lao đóng góp của đại sư Khuông Việt

Năm 1991, nhà xuất bản bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho xuất bản cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên với dung lượng hơn 500 trang trong đó đã giành hơn 30 trang để phân tích về Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, qua đó đưa ra những kiến giải tổng quan nhất về vai trò Phật giáo thời Đinh – Lê, đã bắt đầu chuẩn bị cho sự phát triển đến cực thịnh của Phật giáo thời Lý – Trần. Tuy nhiên cũng chưa có những kiến giải về ảnh hưởng của đại sư Khuông Việt trên các lĩnh vực chính trị, Phật giáo, văn học và nghệ thuật.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đại học quốc gia Hà Nội đã tổ chức họp báo về hội thảo khoa học quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập và đại lễ tưởng niệm 1000 năm ngày quốc sư Khuông Việt viên tịch diễn ra ngày 18 tháng 3 năm 2017 tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội. Đã có nhiều bài tham luận viết về thiền sư Khuông Việt nhưng chưa có bài tham luận nào trình bày đầy đủ, toàn vẹn về ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.

  1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Luận án phân tích ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Thứ nhất, luận án trình bày khái quát về tình hình lịch sử, Phật giáo và văn hóa Đại Việt thời kì đầu độc lập.

Thứ hai, luận án trình bày về thân thế sự nghiệp của thiền sư Khuông Việt.

Thứ ba, luận án phân tích ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên  độc lập đối với các lĩnh vực: chính trị – xã hội, tư tưởng tôn giáo và đạo đức, văn học và nghệ thuật Việt Nam hiện nay.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập đối với các lĩnh vực: chính trị – xã hội, tư tưởng tôn giáo và đạo đức, văn học và nghệ thuật Việt Nam hiện nay.

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Thiền sư Khuông Việt là người có rất nhiều đóng góp cho Phật giáo cũng như đạo pháp dân tộc. Điều đó không chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ đầu độc lập dân tộc mà nó còn có ý nghĩa trong mọi thời đại. Đã có những cuộc hội thảo và có rất nhiều bài viết nói về những công lao to lớn đó của thiền sư nhưng vẫn chưa có những luận án mang tính chuyên sâu và thống nhất. Với tính thời sự của vấn đề  người viết trình bày luận án này để làm sáng tỏ hơn những ảnh hưởng của thiền sư đối với quốc gia dân tộc trong giai đoạn đất nước vừa giành được độc lập, để rút ra những bài học cho công cuộc hội nhập kinh tế thế giới theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đây cũng chính là tính cấp thiết mà những hàng hậu côn cũng như những người con Việt cần biết

  1. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Dẫn nhập và phần Kết luận, luận án này gồm: 3 chương và 10 mục.

Chương 1: Khái quát lịch sử Đại Việt và Phật giáo Ngô – Đinh –Tiền Lê

Chương 2: Vài nét về thân thế sự nghiệp của thiền sư Khuông Việt

Chương 3: Ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử dân tộc đầu kỷ nguyên độc lập

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ ĐẠI VIỆT VÀ PHẬT GIÁO THỜI NGÔ –  ĐINH – TIỀN LÊ

1.1. Khái quát về lịch sử thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

1.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Ngô –  Đinh – Tiền Lê

Khởi đầu kỷ nguyên độc lập, đất nước ta trải qua ba triều, triều Ngô (939 – 968), triều Đinh (968 – 981), Tiền Lê (981 – 1009). Sau khi phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng Ngô Quyền xưng vương hiệu (939), thực sự đã khôi phục nền độc lập và chủ quyền quốc gia, chấm dứt 10 thế kỷ Bắc thuộc. Nói như sử cũ, “Ngô Vương Quyền nối lại quốc thống” ([1]). Tài năng và uy tín cá nhân đã giúp Ngô Quyền duy trì được một chính quyền tập trung chuyên chế, mặc dù lúc đó vẫn tồn tại ở trong nước nhiều thế lực của các hào trưởng địa phương, có xu hướng cát cứ.

Năm năm sau, Ngô Quyền mất (944). Các con của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập và Ngô  Xương Văn không đủ uy tín và sức mạnh để duy trì chính quyền quân chủ tập trung. Dương Tam Kha (em vợ của Ngô Quyền) âm mưu cướp ngôi. Các thổ hào, lãnh chúa nổi lên khắp nơi, cát cứ chống lại chính quyền trung ương. Sau khi Xương Ngập chết năm 954 và Xương Văn chết năm 965, triều Ngô thực tế không còn tồn tại, đất nước rơi vào thế hỗn loạn của nhiều tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương, đánh lẫn nhau. Sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân. Lãnh thổ Việt Nam giữa thế kỷ X bao gồm phần đất Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trên địa bàn đó, tồn tại 12 sứ quân cát cứ:

  1. Kiều Công Hãn tự xưng là Kiều Tam Chế chiếm giữ Phong Châu (Phú Thọ).
  2. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm giữ Tam Đái (Phú Thọ) và Yên Lạc ( Vĩnh Phúc).
  3. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lam Công chiếm giữ Đường Lâm (Hà Tây).
  4. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ vùng Bảo Đà (Thanh Oai – Hà Tây).
  5. Ngô Xương Xí con Ngô Xương Ngập chiếm giữ Bình Kiều (Thanh Hóa).
  6. Lý Khuê tự xưng là Lý Lăng Công giữ đất Siêu Loại ( Bắc Ninh).
  7. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công chiếm giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
  8. Lữ Đường tự xưng Lữ Tá Công chiếm giữ Tế Giang (Văn Giang – Hưng Yên).
  9. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì – Hà Nội).
  10. Kiểu Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công chiếm giữ vùng Cẩm Khuê (Hà Tây).
  11. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át chiếm giữ Đằng Châu (Hưng Yên).
  12. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Thái Bình).

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư – Ninh Bình từ nhỏ có chí khí, có tài tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Sau khi Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh trở thành lực lượng mạnh mẽ, nổi bật lần lượt dẹp yên các thế lực cát cứ thu về một mối. Năm 968, ông lên ngôi, tự xưng là Hoàng đế (thường gọi là Đinh Tiên Hoàng) lấy niên hiệu Thái Bình, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư xây dựng triều chính bước đầu thống nhất đất nước.

Năm 979, nội bộ triều Đinh lục đục. Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị giết hại. Đinh Toàn lúc này mới 6 tuổi lên nối ngôi. Các tướng lĩnh trong triều chia thành phe phái, đánh lẫn nhau. Ở Trung Quốc, nhà Tống đang lăm le xâm phạm bờ cõi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn sau khi tiêu diệt Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, đã nắm trọn quyền binh. Năm 980, trước sự đe dọa xâm lược của nhà Tống, được sự ủng hộ và suy tôn của Dương Thái hậu (mẹ Đinh Toàn), theo đề nghị của Phạm Cự Lạng, Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế (thường gọi là Lê Đại Hành), chuẩn bị kháng chiến, lập ra nhà Tiền Lê.

Được sự phò tá của Phạm Cự Lạng và các cố vấn như các nhà sư Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Lê Hoàn đã tổ chức phòng ngự ở kinh đô Hoa Lư, thành Đại La và phòng tuyến cửa ngõ Bạch Đằng – Hoa Lư. Ở đây, theo kế Ngô Quyền, Lê Hoàn đã cho bố trí trận địa cọc ở lòng sông. Mặt khác, nhà vua sai gửi thư sang nhà Tống, tìm kế hoãn binh. Cuối năm 980, theo kế hoạch tốc chiến bất ngờ quân Tống đã đem quân ồ ạt xâm lược Đại Cồ Việt do Hầu Nhân Bảo làm Tổng chỉ huy cả 2 đạo quân bộ (Tôn Toàn Hưng sau là Trần Khâm Tộ) và thủy (Lưu Trừng). Sau một vài trận giao chiến, Lê Hoàn đã dùng kế trá hàng, dụ quân Tống vào trận địa phục kích Bạch Đằng, đánh tan giặc, giết Hầu Nhân Bảo tại trận tháng 4 – 981. Cánh quân bộ của Trần Khâm Tộ cũng bị truy kích ở Tây Kết. Đại bại, quân Tống phải tháo chạy về nước. Nền độc lập và thống nhất của Đại Cồ Việt qua thử thách càng được củng cố. Năm 982, Lê Hoàn đã đem quân tấn công Champa, giữ yên và củng cố vùng biên giới phía Nam. Năm 1005, Lê Hoàn mất các con tranh chấp ngôi vua. Sau Lê Long Đĩnh nối ngôi, ông này là người tàn ác, trụy lạc, mắc bệnh phải nằm họp triều đình (nên thường gọi là Lê Ngọa triều) không đủ năng lực và uy tín trị nước. Khi Lê Long Đĩnh chết (1009), triều thần do Đào Cam Mộc khởi xướng, đã suy tôn Điện Tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt nhà Tiền Lê.

1.1.2. Nhà nước và chính quyền  Đại Cồ Việt.

Kế tục triều Ngô, nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê về cơ bản là một nhà nước võ trị. Các vua (Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành) đều xuất thân là những tướng lĩnh quen trận mạc, là tổng chỉ huy tối cao quân đội, nắm giữ mọi quyền hành. Hệ thống quan lại phần lớn là các quan võ, thời Lê Hoàn có các chức Đại tổng quản, Thái uý, Điện Tiền chỉ huy sứ. Quân đội Đại Cồ Việt là một quân đội đông và mạnh. Lúc bấy giờ, quân đội thời Đinh có tới 1 triệu người, chia thành 10 đạo, bên dưới có các loại quân, lữ, tốt, ngũ. Quân sĩ đều đội mũ da, gọi là mũ tứ phương bình đính. Coi giữ kinh thành là lực lượng Cấm quân và quân tứ sương. Thời Lê Hoàn có tới 3000 cấm quân, trán khắc chữ “Thiên tử quân”, đội mũ đâu mâu. Vũ khí có cung nỏ, mộc bài, giáo mác. Lực lượng thuyền chiến mạnh đã đánh thắng quân Tống và Champa. Các vua Đinh – Tiền Lê đều dùng quân đội trấn áp các vụ phản loạn trong nước. Dưới chế độ võ trị, luật pháp thời Đinh – Tiền Lê còn nghiêm khắc và tuỳ tiện, dựa theo ý muốn của nhà vua. Đinh Bộ Lĩnh đặt vạc dầu và cũi hổ ở sân triều để trừng phạt phạm nhân. Lê Hoàn hay xử phạt đánh roi những ai làm phật ý mình. Lê Long Đĩnh lấy việc giết người làm trò vui. Trên lý thuyết, để khẳng định uy thế, các vua Đinh – Tiền Lê đã xây dựng bộ máy triều nghi của mình theo mô hình nhà Tống. Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn đều lập cho mình 5 hoàng hậu, đặt ngôi Thái tử, cử các hoàng tử đi trấn trị các địa phương. Đất nước thời Đinh chia làm 10 đạo, Lê Hoàn đổi thành lộ. Trên thực tế, bộ máy triều đình và quan lại còn rất sơ sài, khi gặp sứ Tống, Lê Hoàn còn đang đi chân đất, cầm xiên lội nước xiên cá, vào triều lại chơi trò đọ tay với quần thần. Đây chưa phải là một nhà nước quy củ theo chế độ phong kiến.

1.2. Đặc điểm nổi bật của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê

1.2.1. Những tiền đề kinh tế và văn hóa cho Phật giáo phát triển

Các vua Ngô –  Đinh – Tiền Lê khi lên ngôi hoàng đế đều đã cố gắng thực thi quyền sở hữu ruộng đất nhà nước, vừa để khẳng định quyền lực vừa để nắm lấy thần dân, thu tô thuế, bắt lính. Nhà nước đã có những khu đất tịch điền ở Đọi Sơn (Hà Nam) và Bàn Hải do triều đình trực tiếp quản lý để phục vụ tế lễ. Hằng năm mùa xuân nhà vua đích thân làm lễ tịch điền, đi vài đường cày để nêu gương. Các vua Đinh, Tiền Lê cũng phong cấp đất đai cho các hoàng tử, quý tộc và quan lại. Đinh Tiên Hoàng đã phong cho Trần Lãm thực ấp ở Sơn Nam (Nam Định), sau lại cấp trang Lạc Đạo (Ninh Bình), phong đất cho hào trưởng Lê Lương làm thái ấp thuộc các huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa và Quảng Xương (Thanh Hóa). Lê Hoàn đã cử các hoàng tử đi trấn trị tại các địa phương, phong đất cho họ để được hưởng quyền thu thuế. Lê Long Đĩnh đã phong cho Điện Tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn thực ấp ở Đằng Châu (Hưng Yên). Nhà nước cũng bước đầu thi hành chính sách trọng nông, khuyến khích sản xuất như đào vét các sông kênh (Đá Cai, Bà Hòa) ở vùng Thanh – Nghệ.

Triều đình cũng chú ý phát triển một số ngành nghề thủ công nghiệp để phục vụ vua quan và quân đội, nhất là ở kinh đô Hoa Lư. Các vua Đinh – Tiền Lê khi lên ngôi, đều cho thợ đúc tiền đồng như Thái bình thông bảo ( nhà Đinh) và Thiên phúc thông bảo ( nhà Lê). Nhiều thợ thủ công đã được tập trung ở Hoa Lư như thợ nề, thợ đá, mộc, ngọc, chạm khắc, dát vàng bạc để xây dựng kinh đô trong đó có nhiều cung điện lớn lợp ngói bạc, các cột dát vàng bạc.

Trong dân gian, các nghề truyền thống như dệt vải lụa, làm giấy tiếp tục phát triển. Tiền tệ cũng thúc đẩy việc trao đổi buôn bán hàng hóa trong các chợ làng quê và một số trị sở Hoa Lư, Tống Bình, Long Biên. Việc trao đổi buôn bán vật phẩm cũng được thực hiện với Trung Quốc và với các thuyền buôn nước ngoài.

Cùng với việc xây dựng một chính quyền nhà nước có chủ quyền ở Đại Cồ Việt nửa sau thế kỷ X cũng đã manh nha những mầm mống của một nền văn hóa mang tính dân tộc.

Đạo Nho tuy đã xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc, nhưng đến lúc này vẫn không tạo được những ảnh hưởng đáng kể, nổi trội trong đời sống tâm linh vẫn là những tín ngưỡng dân gian hòa trộn với những tôn giáo có nguồn gốc từ nền văn minh Nam Á như Phật và Đạo. Triều đình Đinh – Tiền Lê đã suy tôn Phật giáo làm Quốc giáo. Ở kinh đô Hoa Lư đã xây dựng nhiều chùa chiền (chùa Bà Ngô, chùa Tháp, chùa Nhất Trụ) và các cột kinh Phật. Các nhà sư thời kỳ này như Sùng Phạm, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu (Khuông Việt), Vạn Hạnh đã là các trí thức được sử dụng như những cố vấn cung đình và những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua, đặc biệt trong các dịp tiếp sứ thần nhà Tống. Phật giáo thường kết hợp với Đạo giáo, như Trương Ma Ni đã được phong chức Tăng lục đạo sĩ.

Nhiều loại hình văn hóa dân gian đã tồn tại trong thời Đinh – Tiền Lê như ca múa nhạc (qua truyền thuyết về bà Phạm Thị Trân dạy quân sĩ đánh trống), tạp kỹ như đi trên dây, đánh đu, trồng cây chuối (qua truyền thuyết về Văn Du Tường dùng mưu diệt quỷ Xương Cuồng ở Bạch Hạc).

Các vương triều Ngô – Đinh – Tiền Lê có thể coi như một thời kỳ lịch sử quá độ từ ngoại thuộc qua tự chủ đến độc lập. Những thập kỷ bản lề đó đã bước đầu thực hiện được sự nghiệp khôi phục độc lập, thống nhất quốc gia, xây dựng chính quyền quân chủ và đặt nền móng cho một nền văn hóa dân tộc sự nghiệp đó sẽ được củng cố và phát triển lên một tầm cao mới trong những thế kỷ tiếp theo.

1.2.2. Đặc điểm nổi bật của Phật giáo Ngô – Đinh – Tiền Lê

Những năm đầu kỷ nguyên độc lập, nhà nước mới được xây dựng đang dần dần tự củng cố, vừa phải chuẩn bị đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài, vừa phải đối phó với những yếu tố phân tán cát cứ ở bên trong. Trong bối cảnh đó, tất nhiên bạo lực và quân sự là ứng xử ưu tiên của các ông vua và bộ máy nhà nước. Song cũng thật kỳ lạ, đó cũng là thời kỳ bước đầu phát triển mạnh mẽ của Phật giáo. Chính những ông vua từng đặt vạc dầu giữa sân, nuôi hổ báo trong cũi để trấn áp mọi chống đối, lại ủng hộ Phật giáo. Có hiểu được cái tình thế dường như mâu thuẫn đó, chúng ta mới thấy rõ được đặc điểm của Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ X.

Ở những thế kỷ đầu độc lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền mới thành lập chưa lựa chọn được ngay tư tưởng chủ đạo để lãnh đạo đất nước của mình nên Phật giáo lúc bấy giờ được thu nhận dễ dàng để làm phương tiện thống trị cho tinh thần ấy. Trong khi đó các dường mối của Nho giáo lại chưa được phát triển đầy đủ, bấy giờ Phật giáo đã chiếm được ưu thế trong xã hội.

Theo cuốn lịch sử Phật giáo Việt Nam của Viện Triết thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam do giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên thì khu vực Phật giáo được phát triển nhất trong thế kỷ X vẫn là vùng bắc Sông Hồng. Ngoài những trung tâm Phật giáo lâu đời như Luy Lâu ( Thuận Thành, Hà Bắc), Kiến sơ ( Phù Đổng, Gia Lâm), bấy giờ đã có rất nhiều chùa. Chỉ trong Châu Cổ pháp ( thời Lý đổi là phủ Thiên Đức) đã có nhiều chùa nổi tiếng như chùa Kiến Dương ở hương Hoa Lâm, chùa Thiên Chúng và chùa Lục Tổ ở hương Dịch Bảng, chùa Song Lâm ở hương Phù Ninh. Chùa Cảm Ứng ở trên núi Ba Sơn …Nhưng trong thế kỷ X, cũng có thêm những trung tâm Phật giáo mới. Đó là trung tâm Đại La, mà sau đó đã cho dựng chùa Khai Quốc ( tức chùa Trấn Quốc, Hà Nội ngày nay). Cho đến giữa thế kỷ X, chùa này là nơi trụ trì của Thiền sư Vân Phong,  người thuộc thế hệ thứ 3 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Học trò của Vân Phong là Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu, vị Tăng thống thời Đinh, đã cho mở mang chùa Khai Quốc, biến nơi đây trở thành một trung tâm truyền thụ Phật giáo và Thiền sư Đa Bảo đã đến dự học.

Đó là trung tâm Hoa Lư đã được xây dựng thành kinh đô của đất nước trong hai triều Đinh và Lê. Vì các nhà vua của hai triều này đều coi trọng Phật giáo, họ đã cho xây dựng ở kinh đô nhiều ngôi chùa mà ngày nay chúng ta còn thấy được một số dấu vết. Chùa Tháp là ngôi chùa cổ mà nay chỉ còn thấy di tích nền cũ ở ven sông Hoàng Long. Trong số đá tảng chân cột, có viên hình vuông cạnh đến 1,06m và vòng tròn kê cột có đường kính 0,68m. Như vậy, kiến trúc xưa hẳn là lớn lắm. Chùa Nhất Trụ ở Hoa Lư hiện nay không còn giữ được dấu vết gì của kiến trúc cổ. Nhưng cây cột đá tám mặt cao 3m, khắc bài thần chú Kinh Lăng Nghiêm và các bài kệ, dựng khoảng năm 995 vẫn còn ở trước chùa, hẳn đã được dựng cùng thời với ngôi chùa cổ. Chùa Bà Ngô ở Hoa Lư tương truyền cũng được xây dựng từ thời Đinh. Tấm bia đá thời Nguyễn ở chùa này có ghi: “ Chùa Bà Ngô trong ấp ta là một danh lam ở cố đô cũ nước Cồ Việt”[2]. Chùa này thờ Bà Ngô một nữ thần, phải chăng ở đây Phật giáo cũng gắn liền với sự sùng bái các nữ thần nông nghiệp như ở trung tâm Luy Lâu.

Trong khi Phật giáo tỏa rộng và thấm dần vào đời sống nhân dân, thì giữa triều đình Phật giáo được công nhận như một tôn giáo chính thức. Đinh Tiên Hoàng sau khi lên ngôi năm 971, đã quy định các cấp bậc Tăng đạo đồng thời với cấp bậc quan lại văn võ. Nhà sư Khuông Việt, được cử làm Tăng Thống và Tăng Lục là các chức quan dưới chức Tăng Thống, Tăng Thống và Tăng Lục là các chức Tăng quan mà các triều đại về sau vẫn dùng.

Việc quy định các chức quan Tăng đạo đồng thời với việc xây dựng bộ máy nhà nước, chứng tỏ vua Đinh rất chú trọng đến vị trí của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Nhà Lê tiếp theo cũng theo đường lối đó của nhà Đinh.

Dưới triều Đinh, Tiền Lê nhiều nhà Sư đã trở thành cố vấn cho các ông vua về đường lối đối nội và đối ngoại. Tên hiệu Khuông Việt mà Đinh Tiên Hoàng đã ban cho nhà sư Ngô Chân Lưu đã nói lên điều đó. Khuông Việt có ý nghĩa “ giúp nước Việt”. Nhà sư Đỗ Pháp Thuận cũng là một cố vấn của vua Lê Đại Hành. Vua Lê Đại Hành kính trọng thường gọi Ngài là Đỗ Pháp Sư chứ không dám gọi tên và giao cho thiền sư giữ việc Văn hàn. Các nhà sư như Ma Ha, Sùng Phạm, Vạn Hạnh cũng thường được vua Lê Đại Hành nhiều lần mời vào cung để hỏi ý kiến về việc đạo cũng như việc đời. Chẳng hạn như thiền  sư Vạn Hạnh đã được vua Lê Đại Hành hỏi về kết quả của cuộc kháng chiến chống Tống năm 980. Vạn Hạnh là nhà sư đã hoạt động tích cực trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi.

Thời Đinh và Tiền Lê cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI xuất hiện nhiều nhà sư tham gia công cuộc dựng nước và giữ nước trong đó tiêu biểu là Thiền sư Khuông Việt là vị Tăng đầu tiên đã nhập thế cứu đời. Với đạo cao trí lớn, Ngài là pháp tự thứ tư phái Vô Ngôn Thông, một thiền phái truyền từ Trung Quốc vào Việt Nam và được vua Đinh Tiên Hoàng kính nể mời làm Thái sư trong triều để giúp vua dẹp loạn 12 xứ quân thống nhất đất nước và được vua phong là Khuông Việt Thiền sư (vị Thiền sư giúp đỡ sửa sang nước Việt) tên thật là Ngô Chân Lưu ( 939 – 1011) tu ở chùa Phật Đà thuộc hương Cát Lợi – Thường Lạc. Năm 40 tuổi, Ngài được vua Đinh Tiên Hoàng mời làm cố vấn. Khi vua Lê Đại Hành lên ngôi, nhà vua vẫn kính trọng mời Ngài làm cố vấn và phong Ngài làm Quốc sư, do đó vua Lê Đại Hành đã đánh bại quân xâm lược Tống tại ải Chi Lăng, giữ vững được nền độc lập dân tộc. Khuông Việt Đại sư là người rất thông hiểu đạo Phật qua bài thi kệ mà Ngài đã để lại trước khi viên tịch, nói về mỗi chúng sinh đều có Phật tính, chỉ cần biết khai mở Phật tính đó thì con người là Phật:

“Mộc trung nguyên hữu hỏa,

Nguyên hỏa phục hoàn sinh.

Nhược vị mộc vô hỏa,

Toàn toại hà do manh”.

Dịch:

“Lửa trong cây có sẵn

Dù tắt lại bùng ngay

Nếu bảo cây không lửa

Sát mạnh sao cháy cây” [3].

Vua  Đinh Tiên Hoàng thường mời Khuông Việt đến hỏi chuyện và rất mến phục Sư. Vua Lê Đại Hành lại càng kính trọng Khuông Việt, những việc quân quốc đại sự, Sư đều được tham dự

Cũng dưới triều Lê Đại Hành, thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng được nhà vua mời làm cố vấn ngoại giao cùng với Quốc sư Khuông Việt. Thiền sư Pháp Thuận ( 914 – 990) họ Đỗ, Ngài trụ trì ở chùa Cổ Sơn, làng Thử, quận Ải, thờ thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ làm thầy. Theo Thiền Uyển tập anh, Ngài là người  “bác học, hay thơ, có tài vương tá, hiểu rõ việc đời” [4]. Khi vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, Ngài đã trả lời bằng một bài kệ:

“Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh”.

Dịch:

“Vận nước như mây quấn,

Trời Nam hưởng thái bình.

Vô vi trên điện các,

Chốn chốn dứt đao binh”[5].

Có lần tiếp sứ giả nhà Tống sang và sau khi ra về, sứ giả nhà Tống là Lý Giác đã khâm phục tài của Khuông Việt và Đỗ PhápThuận nên đã làm bài thơ tặng vua Lê Đại Hành để tỏ lòng kính mộ của mình :

“Hạnh ngộ minh thời tân thịnh du

Nhất thân lưỡng độ xứ Giao Châu

Đông đô tái biệt tâm lưu luyến

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu”

“May gặp minh quân giúp việc làm

Một mình hai lượt sứ miền Nam

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ

Muôn dặm non sông mắt chưa nhàm

Ngựa đạp mây bay qua suối đá

Xa vòng núi chạy tới giòng lam

Ngoài trời lại có trời soi rạng

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm”[6]

(TT. Thích Mật Thể dịch)

Với sự kính nể nước Việt có nhiều nhân tài như vậy nên nhà Tống đã từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta. Các nhà Sư trong thời Đinh Lê đã tham gia rất nhiều công việc trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước của dân tộc. Họ thường được nhà vua giao cho các công việc ngoại giao và cố vấn chính trị. Đặc biệt sư Khuông Việt và Pháp Thuận đã được nhà vua giao tiếp đón xứ thần Trung Quốc. Năm 987, vua Lê Đại Hành đã sai Pháp Thuận giả làm người lái đò để đón sứ là Lý Giác. Lúc Lý Giác trở về Trung Quốc, vua lại sai thiền sư Khuông Việt làm bài Từ “Ngọc lang quy” để tiễn biệt:

“Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,

Thần tiên phục đế hương.

Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang,

Cửu thiên quy lộ trường.

Tình thảm thiết,

Đối ly trường,

Phan luyến sứ tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị

Nam cương,

Phân minh báo ngã hoàng”.

Dịch:

“ Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương,

Thần tiên lại đế hương.

Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương,

Về trời xa đường trường.

Tình thắm thiết,

Chén lên đường,

Vin xe sứ vấn vương.

Xin đem thâm ý vì Nam cương

Tâu vua tôi tỏ tường” [7].

Đó là bài thơ ngoại giao có lời đẹp và biểu hiện rõ ràng ý thức độc lập tự chủ. Cho tới nay, nhiều nhà sử học cho rằng đó là tác phẩm sớm nhất của văn học Việt Nam.

Các Thiền sư thời Đinh – Lê tuy không tham chính, nghĩa là tham dự vào bộ máy chính quyền, nhưng qua việc làm và các hành trạng của các Thiền sư nêu trên ta thấy ảnh hưởng của họ đối với chính trị rõ ràng là rất lớn.

Phật giáo với sự tỏa rộng về mặt không gian cũng như sự thấm sâu trong đời sống tinh thần của người Việt, bước đầu đã chiếm được vị trí vững chắc trong xã hội thế kỷ X. Tất nhiên sự toàn thịnh của nó chỉ có được trong hai triều đại Lý -Trần tiếp theo. Nhưng giờ đây dựa vào các nguồn sử liệu hiện có, kết hợp với những tài liệu khảo cổ học tìm được ở Hoa Lư, chúng ta có thể nhận ra sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo thế kỷ X và sự đóng góp của Phật giáo vào công cuộc giữ gìn, xây dựng và phát triển đất nước thời Ngô – Đinh và Tiền Lê của dân tộc Việt Nam.

1.3.Tiểu kết chương 1

Với sự hội nhập nhanh chóng của Phật giáo vào nền văn hóa dân tộc trong những buổi đầu dành độc lập đã tạo nên những tư tưởng cao siêu thấm đẫm tư tưởng triết học Phật giáo mà không biết từ khi nào nó đã ăn sâu vào trong quần chúng nhân dân lao động trở thành những giá trị định hướng cho suy nghĩ và hành động của người Việt. Phật giáo đã kết hợp với văn hóa tín ngưỡng bản địa tạo nên một lâu đài tráng lệ về văn hóa mà vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Một đất nước luôn mang hơi thở từ bi và trí tuệ của Đạo Phật, ở đó có những bậc danh Tăng luôn cống hiến hết mình vì nền độc lập của dân tộc, bởi đó là sứ mạng mà Đức Như Lai giao phó cũng là trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đã được  Đảng và Nhà nước công nhận. Như vậy, Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc trong những ngày dân ta bị áp bức bóc lột, chính ngọn lửa từ bi ấy đã làm nên chiến thắng vẻ vang cho dân tộc Việt Nam, thiết lập chủ quyền, bờ cõi, một đất nước đã có vua cai trị, có dân thuần hậu và có những bậc anh tài sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho Tổ quốc.

CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ THIỀN SƯ KHUÔNG VIỆT

2.1. Thân thế

Khuông Việt (933 – 1011), trước tên là Ngô Chân Lưu, tu hành tại chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh – Sóc Sơn – Hà Nội), sư là người Cát Lợi, họ Ngô thuộc thế hệ thứ 4 dòng Vô Ngôn Thông. Đại sư Khuông Việt là vị Thiền sư được phong Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban danh hiệu Khuông Việt Đại sư vào năm 971. Quê quán của Ngài ở thôn Đoài, xã Gia Hạ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, nay đổi là thôn Thụy Hương – Xã Phú Cường – Sóc Sơn – Hà Nội. Theo phả hệ họ Ngô – Việt Nam, ông là con cả của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, vốn có tên là Ngô Xương Tỷ, ông là anh của sứ quân Ngô Xương Xí.

Ngài Khuông Việt học rộng, hiểu biết sâu xa về yếu chỉ thiền học. Đến thời vua Lê Đại Hành, Ngài được đặc biệt trọng dụng. Vua Lê tôn Ngài như bậc Thầy trong cả nước.Vào năm 986, thiền sư Khuông Việt và Đỗ Pháp Thuận được cử giao thiệp với sứ giả nhà Tống là Lý Giác. Lúc sứ giả trở về, Thiền sư có tặng Ngài bài thơ “Vương Lang Quy”. Ngài tịch ngày 15 tháng 2 năm Tân Hợi, năm Thuận Thiên thứ 2 (1011).

2.2. Sự nghiệp

Quốc sư Khuông Việt không chỉ là một nhà tu hành thuần túy mà còn là một nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba lỗi lạc bậc nhất của Phật giáo. Danh tiếng cũng như huyền thoại về ông là tấm gương sáng về tinh thần đạo pháp dấn thân cùng dân tộc vẫn được lưu truyền hàng nghìn năm trong lịch sử Phật giáo dân tộc Việt Nam, đặt nền móng xây dựng đất nước quân chủ và tư tưởng hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc, là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ Phật tử noi theo. Quốc sư Khuông Việt còn là đại tri thức mở nước trên cương vị một nhà tôn giáo, một nhà Phật học mà xã hội ghi nhận những đóng góp, những quan điểm cố vấn chính trị trong việc xây dựng đất nước bảo toàn lãnh thổ dân tộc Việt Nam, tư tưởng và học vấn uyên thâm của Đại sư được hình thành và phát triển trên cơ sở Tam giáo đồng nguyên (Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo). Đặc biệt là truyền thống yêu nước nhân văn cao cả từ nội sinh của dân tộc. Ông đã kế thừa, phát huy chủ nghĩa thân dân, tham chính không tham quyền, linh hoạt ứng xử đối với các vấn đề xã hội. Thời kỳ lịch sử cuối thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XI, ở nước ta việc học hành chưa có điều kiện phát triển, hầu hết các tri thức đều xuất thân từ các nhà chùa. Sau khi học Nho, Ngô Chân Lưu xuất gia tại chùa Phật Đà. Năm 20 tuổi, Thiền sư cùng trụ trì chùa Phật Đà đến chùa Khai Quốc (trước ngoài đê sông Hồng, nay là chùa Trấn Quốc) cầu pháp với thiền sư Vân Phong, sau được truyền tâm ấn trở thành vị tổ thứ 4 dòng thiền Vô Ngôn Thông. Thiền sư Khuông Việt còn là người xây dựng chùa Non Nước ở núi Vệ Linh – Sóc Sơn, sau một lần được Tỳ Sa Môn Thiên Vương báo mộng. Tại kinh đô Hoa Lư, Quốc sư Khuông Việt, vừa phụ trách việc giáo dục của tôn giáo, vừa là cố vấn đặc biệt của nhà vua. Quốc sư đã đóng góp rất nhiều kế sách về tổ chức kháng chiến chống quân Tống xâm lược, dành thắng lợi trên chiến trường. Quốc sư Khuông Việt chủ trương ngoại giao, bang giao hòa bình với nhà Tống. Năm 986, ông và Đỗ Pháp Thuận phụng mệnh vua Lê tiếp Lý Giác, là sứ giả của nhà Tống. Sử sách còn ghi lại  bài thơ “Vương Lang quy”. Đây là tác phẩm văn học ngoại giao xuất sắc nhất đầu tiên của dân tộc do Quốc sư viết tặng Lý Giác lúc lên đường trở về nước.

Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, Quốc sư Khuông Việt cùng Thiền sư Vạn Hạnh đã ủng hộ tích cực và tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi vua.

Khi Lý Thái Tổ rời đô về Thăng Long, thế vận nước ngày một hưng thịnh, Quốc sư Khuông Việt đã rời bỏ triều đình về chùa mở trường đào tạo tăng tài, tức là đào tạo trí thức cho đất nước. Người học trò nổi tiếng của Quốc sư là Thiền sư Đa Bảo, người có vai trò rất lớn đối với triều đình vua Lý Thái Tổ.

Ngày 15/2 năm Thuận Thiên thứ 2 (1011), khi sắp cáo tịch, sư gọi Đa Bảo đến dạy và truyền kệ rằng:

“ Mộc trung nguyên hữu hỏa

Nguyên hỏa phục hoàn sinh

Nhược vị mộc vô hỏa

Toàn toại hà do manh”.

Dịch:

“ Lửa trong cây có sẵn

Dù tắt lại bùng ngay

Nếu bảo cây không lửa

Xát mạnh sao cháy cây[8].

2.3. Tiểu kết chương 2

Như vậy, thiền sư Khuông Việt không chỉ tinh thông về Phật học mà còn am hiểu sâu sắc về Nho học. Trải qua các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý với tầm kiến văn sâu sắc, uyên thâm đạo pháp, bằng uy tín và vị thế to lớn quốc sư Khuông Việt làm cho nước Đại Việt ngày một ổn định và hưng vượng. Tri ân thiền sư, ngày nay nhiều địa phương đã lấy pháp danh của Ngài đặt tên đường, tên trường, tên tạp chí, thậm chí không chỉ trong nước ta mà cả ở Pháp và Na Uy cũng có chùa mang tên thiền sư

CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA THIỀN SƯ KHUÔNG VIỆT ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐẦU KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP (938 – 1009)

3.1. Về chính trị

Ngay từ buổi đầu đất nước giành được độc lập các nhà lãnh đạo Việt đã nhận thức được vai trò của Phật giáo là cố kết nhân tâm dẫn dắt quần chúng hướng tới việc củng cố quyền lực, định hướng chính trị của các nhà cầm quyền hết sức rõ ràng và đó là một định hướng minh triết tiếp tục được phát huy trên tầm mức mới đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của thực thể chính trị – văn hóa Đại Việt suốt 5 thế kỷ tiếp theo với vai trò của các bậc minh quân kết hợp với tài năng cố vấn của các thiền sư lỗi lạc, trong đó phải kể đến Đại sư Khuông Việt, như là người có công thiết lập vai trò và vị thế của Phật giáo đối với nền chính trị – văn hóa Đại Việt.

Thiền sư Ngô Chân Lưu là hậu duệ của Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền), “thuở nhỏ theo Nho học, lớn lên theo đạo Phật, cùng bạn đồng học Trụ Trì đến chùa Khai Quốc thụ giới cụ túc với thiền sư Vân Phong, nhờ đó được đọc nhiều kinh điển Phật giáo, hiểu sâu yếu chỉ Thiền học” [9]. Khi Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) lên ngôi năm 968, nhà vua “muốn dùng uy để chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn”[10]. Khi đó thiền sư 35 tuổi. Năm 40 tuổi (970), nhà vua đã biết tới danh tiếng thiền sư và mời vào triều đình, “Sư đối đáp hợp ý, được vua phong giữ chức Tăng thống là chức quan đứng đầu Phật giáo. Năm thứ hai niên hiệu Thái Bình (971) sư được ban hiệu là Khuông Việt đại sư”[11]. Liên kết hai sự kiện trị nước của vua Đinh Tiên Hoàng chúng ta thấy, ngay từ những năm đầu xây dựng triều đình, nhà vua đã ý thức sâu sắc về việc dùng Pháp và Đạo trong quản lý đất nước, củng cố uy quyền. Việc Khuông Việt Đại sư được phong Tăng thống đưa ra hai chỉ báo. Thứ nhất là sự phát triển của Phật giáo thời đó đã ở tầm mức là một lực lượng xã hội quan trọng mà nhà vua mong muốn thu phục và kiểm soát. Thứ hai là việc lựa chọn người tài, tinh thông Phật pháp vào bộ máy quản lý và chính thức hóa chức quan dành cho tôn giáo là một lựa chọn định hướng chính trị mang tầm chiến lược của vua Đinh Tiên Hoàng đồng thời là một định hướng phù hợp với kết cấu tinh thần xã hội Đại Việt thời kỳ đầu độc lập, giúp cho việc thống nhất nhân tâm hướng tới sự thống nhất về chính trị, về nhà nước, sau thời loạn lạc 12 sứ quân. Khuông Việt Đại sư, với tài năng và uy tín của mình, đã không chỉ đáp ứng định hướng chính trị đó mà còn có vai trò quan trọng trong việc đặt nền tảng mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ cho Phật giáo nói riêng, văn hóa tư tưởng  Đại Việt nói chung.

Dưới triều Đinh, sử sách không ghi chép nhiều về những hành trạng cụ thể của Đại sư phò giúp triều đình. Tuy nhiên, việc phát hiện ra các tràng kinh cổ ở Hoa Lư cho thấy với sự tham mưu của Khuông Việt Đại sư, Nam Việt Vương Đinh Khuông Liễn sau khi đi sứ về, được phong Kiểm hiệu thái sư Tĩnh Hải Quân Tiết Độ sứ An Nam đô hộ, đã cho dựng 100 tràng kinh vào năm Quí Dậu (973) và lại dựng 100 tràng kinh nữa vào năm 979 sau khi ngầm sai người giết em là Hoàng thái tử Hạng Lang. Điều này cho thấy, dưới ảnh hưởng của Đại sư, từ góc độ tâm linh, các nghi lễ Phật giáo đã gia nhập vào nhiều sự kiện triều chính.

Vai trò và ảnh hưởng của Đại sư Khuông Việt trở nên đặc biệt quan trọng dưới thời vua Lê Đại Hành (980 – 1005) trên hai phương diện cố vấn chính trị và phát triển Phật giáo: “Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều chính, sư đều được tham dự. Năm Thiên Phúc thứ hai (981), trước việc quân Tống sang xâm lược, vua sai sư đến đền cầu đảo xin thần phù hộ, sau quân giặc thua chạy”[12]. Năm Thiên Phúc thứ bảy (987), thừa lệnh vua, Đại sư đã cùng với thiền sư Đỗ Pháp Thuận (914 – 990), thế hệ thứ 10 dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi) hoàn thành xuất sắc vai trò ngoại giao đón tiếp và đưa tiễn sứ thần Lý Giác nhà Tống với ý nghĩa thể hiện cho sứ giả nhà Tống biết về tiềm lực nhân tài nước Việt (người chèo đò cũng có tài đối đáp thơ phú) và tinh thần độc lập tự chủ của nước Việt (Từ khúc Ngọc Lang Quy). Khúc Từ Ngọc Lang Quy mà Khuông Việt Đại sư viết để tiễn đưa phái bộ nhà Tống đã trở thành văn kiện ngoại giao đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam cũng là văn bản sớm nhất của văn học Việt Nam:

“Nắng tươi gió thuận, cánh buồm giương,

Thần tiên lại đế hương.

Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương,

Về trời xa đường trường.

Tình thắm thiết,

Chén lên đường,

Vin xe sứ vấn vương.

Xin đem thâm ý vì Nam cương

Tâu vua tôi tỏ tường” [13].

Từ khúc này dưới hình thức ngôn từ trau chuốt, đẹp đẽ, mềm mại đã biểu lộ rõ ý thức dân tộc độc lập tự chủ, cương cường của vua tôi triều Tiền Lê. Từ khúc này cũng là văn bản đầu tiên diễn đạt tư tưởng ngoại giao chính trị thần phục giả vờ, độc lập thực sự của các thế hệ thủ lĩnh Việt đối với triều đình Trung Hoa. Tri thức Nho học, tài năng ngoại giao và kinh nghiệm chính trị dân tộc của Đại sư Khuông Việt đã thể hiện súc tích qua bài Từ trên, giúp ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vua trao và bài Từ này đã trở thành một văn bản quan trọng trong lịch sử ngoại giao, lịch sử văn học, lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Mặc dù sử chính thống không ghi chép về hoạt động hoằng hóa Phật pháp trong thời gian hoạt động triều chính nhưng với những công tích chính trị của mình, với tình cảm sâu nặng mà các vị vua Đinh, Lê giành cho Đại sư Khuông Việt, chắc chắn là Ngài đã có công lớn gây dựng và phát triển Phật giáo trong khoảng 40 năm cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI. Sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam cho biết, trong giai đoạn này, Phật giáo đã có ảnh hưởng ngày càng gia tăng trong đời sống xã hội với sự phát triển của số lượng chùa cả ở đồng bằng cũng như các vùng xa trung tâm như Ái Châu, Phật giáo với sự tỏa rộng về mặt không gian, cũng như sự thấm sâu trong đời sống tinh thần, đã bước đầu chiếm được một vị trí vững chắc trong xã hội”[14].

Chúng ta không rõ Đại sư đã rời nhiệm vụ Tăng thống và những chính sự khác vào năm nào do thiếu sử liệu. Tuy nhiên sau khi cáo quan, Đại sư đã trở về dựng chùa Thanh Tước ở núi Du Hý quận Thường Lạc, rồi trụ trì tại đó, người các nơi đến theo học rất đông. Ngoài ra, Khuông Việt Đại sư cũng thường tới giảng dạy tại chùa Khai Quốc. Trong thời gian giảng dạy đạo pháp, Đại sư chú trọng tới các vấn đề triết học thiền tông như chân như, hư không, thủy chung của đạo học và phương pháp truyền thừa… .Những vấn đề triết học đó đã trở thành một phần di sản tư tưởng dân tộc. Học trò xuất sắc của ông là thiền sư Đa Bảo đã được truyền tâm ấn, trở thành thế hệ truyền thừa thứ 5 dòng Vô Ngôn Thông, là một trong số những người có ảnh hưởng đến việc lên ngôi của Lý Công Uẩn.

Như vậy, xét một số sự kiện lịch sử và tư tưởng liên quan trực tiếp và gián tiếp tới Đại sư Khuông Việt, chúng ta thấy nổi lên chiều hướng xây dựng mối quan hệ liên kết, hài hoà giữa chính trị và tôn giáo, giữa nhà nước và giáo hội ngay từ những thể chế nhà nước độc lập đầu tiên với vai trò tiên quyết và sáng suốt của những người đứng đầu. Lịch sử phát triển dân tộc đã xây dựng nên một truyền thống dung hoà tốt đẹp về quan hệ giữa nhà nước và giáo hội Phật giáo. Mối liên kết, ủng hộ lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa nhà nước và Phật giáo suốt mấy thế kỷ đầu dựng nước đã góp phần xây dựng một nhà nước Đại Việt hùng mạnh và văn hiến.

Những người đứng đầu bộ máy chính quyền dung nạp, sử dụng tôn giáo vào mục đích tập hợp quần chúng, cố kết nhân tâm để củng cố sự vững mạnh của chính quyền, thiết lập mối quan hệ hài hoà giữa nhà nước và tôn giáo, tạo nên sức mạnh văn hoá đặc sắc, sự phát triển hoà bình, phồn vinh và độc lập cho đất nước. Những người đứng đầu Phật giáo đem hết tài năng, trí tuệ và tâm sức phò giúp nhà vua và triều đình xây dựng đất nước trở thành vùng đất văn hiến và độc lập. Sự kết hợp chính trị và Phật giáo trong các vương triều đầu thời kỳ độc lập với vai trò quyết định của vua Đinh Tiên Hoàng và sự đáp ứng hoàn hảo của Đại sư Khuông Việt là một định hướng chính trị – văn hóa chiến lược phù hợp với kết cấu cộng đồng Việt giai đoạn đầu độc lập khỏi ách thống trị Bắc thuộc, đã tạo lập nền tảng vững chắc cho sự tồn tại của thể chế chính trị – văn hóa Đại Việt suốt 4 thế kỷ tiếp theo, làm nên bản sắc văn hóa chính trị Phật giáo độc đáo của Việt Nam.

3.2. Phật giáo

Thiền sư Khuông Việt không chỉ tinh thông về Phật học mà còn am hiểu về Nho học sâu sắc. Mặc dù không thấy các tư liệu thư tịch nói Ngài học Nho của vị Nho sĩ nào, được đào tạo theo hình thức ra sao và theo “nghiệp Nho” trong thời gian bao lâu, nhưng ta cũng có thể hình dung thời đó đã có một số Nho sĩ làm nhiệm vụ đào tạo và hành đạo trong quá trình tham gia vào chính sự. Cũng cần chú ý một chi tiết hết sức thú vị tuy vừa đấu tranh để thoát khỏi sự lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, nhưng sau khi xưng vương, Ngô Quyền lại lập hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục như bên Bắc triều. Việc làm này cho thấy, Ngô Vương đã ý thức được sự cần thiết cũng như vai trò quan trọng của Nho giáo trong việc xây dựng một xã hội quy củ và cai trị đất nước. Và vì thế, có thể khẳng định chữ nghiệp được các tài liệu dùng khi nói về thời niên thiếu của Ngô Chân Lưu không chỉ đơn giản là việc theo học Nho như đã dịch mà còn mang nghĩa rộng hơn là việc gia đình, chắc chắn có cả Tiền Ngô Vương lựa chọn nghiệp Nho cho ông, một vị thiếu vương, ắt là sự chuẩn bị bài bản và chu đáo cho một ông vua tương lai. Cũng khó để khẳng định, nếu Dương Tam Kha không đoạt ngôi báu và Xương Ngập kế vị Tiền Ngô Vương, thì sau đó sẽ là Ngô Xương Tỷ (Chân Lưu) tiếp nối. Như vậy, Ngô Chân Lưu sẽ là bậc “chí tôn thiên tử” thay vì một vị Quốc sư tăng thống. Nhưng rõ ràng, xuất gia quy Phật là một quyết định quan trọng, có ý nghĩa mấu chốt trong cuộc đời của Ngài và có thể đó chính là sự lựa chọn đúng đắn, để các thế hệ sau được ngưỡng mộ một bậc Quốc sư toàn đức toàn tài. Được theo học một thiền sư đắc pháp, lại sẵn có tư chất thông minh, nên nhanh chóng hiểu được yếu chỉ thiền môn, vì thế danh tiếng của thiền sư Chân Lưu được nhiều người biết đến. Thiền Uyển tập anh ghi: “Năm 40 tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến, Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng thống. Năm Thái Bình thứ 2 (971), Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư”[15]. Còn trong Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tân Mùi, (Thái Bình) năm thứ 2 (971). Bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo, cho Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, cho Trương Ma Ni làmTăng Lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm sung chân uy nghi”[16]. Những sự kiện trên có ý nghĩa nhất định, việc Ngài vào chầu đối đáp (có thể về Phật pháp hay chính sự cũng có thể là cả hai) với Đinh Tiên Hoàng chứng tỏ cả hai bên đều không câu nệ vào những vấn đề của quá khứ và còn cho thấy cả hai đều khá tương đồng về tư tưởng học vấn. Mặc dù chưa tìm thấy một tư liệu nào ghi lại Đại sư Chân Lưu đã làm những gì cho triều đình và đất nước nhưng chắc chắn việc được phong cho chức Tăng thống (người nắm toàn bộ sư sãi ở trong nước) rồi được ban hiệu là Khuông Việt (giúp đỡ, phù trợ cho nước Việt) đã chứng tỏ Ngài phải có những cống hiến to lớn, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp của Đinh Tiên Hoàng và quốc gia Đại Cồ Việt, bởi đây là lần phong tước đầu tiên của triều Đinh sau khi dẹp yên loạn 12 sứ quân và Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế. Thông thường, lần phong tước ban thưởng đầu tiên là dành cho những tướng lĩnh có công trạng lớn, các bậc “khai quốc công thần”. Vì thế, việc một người xuất gia tu hành được phong cùng với những người có công đầu trong việc thống nhất đất nước đã chứng tỏ sự đề cao và kính trọng của Đinh Tiên Hoàng với Tăng thống Chân Lưu. Đó cũng là sự ghi nhận những đóng góp của Ngài đối với triều đình và dù còn có ý kiến cho rằng, việc ban hiệu Khuông Việt cho một nhà sư là hành động mang ý nghĩa màu sắc chính trị thì cũng không thể phủ nhận những ảnh hưởng của Đại sư Khuông Việt đối với Đại Thắng Minh hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng) và nhất là với Nam Việt vương Đinh Liễn. Điều đó được thể hiện rõ nét qua 200 tràng kinh mà Đinh Liễn cho khắc để cầu cho cha và bản thân mình được sống lâu, lộc vị được vững bền và người em của Liễn là Thái tử Hạng Lang được siêu thoát. Điều đáng quan tâm nhất là trên các kinh tràng ấy Đinh Liễn đều cho đề tên mình là Đinh Khuông Liễn. Rõ ràng, việc một thái tử cho đề thêm chữ “Khuông” vào tên mình cho thấy đó là biểu hiện của sự tôn kính không chỉ của riêng một cá nhân đối với Đại sư, mà còn là sự trọng thị của cả triều đình quân chủ đối với Ngài. Hơn thế nữa, khi lấy chữ “Khuông” làm đệm cho tên, Đinh Liễn còn muốn khẳng định mình thực sự đã là một Phật tử, hoặc chí ít cũng là tín đồ của vị chủ đàn tế Khuông Việt. Sự kiện này đã cho thấy tính nhập thế của Phật giáo ở đầu giai đoạn tự chủ mà Khuông Việt là người tiên phong. Ngoài ra, sự hiện hữu của những tràng kinh cũng đã chứng tỏ vai trò của Phật giáo trong thời kỳ này đối với đất nước nói chung, gia tộc họ Đinh nói riêng. Sự kiện 200 tràng kinh được khắc cũng chứng tỏ gia tộc họ Đinh phải là những Phật tử thuần thành và “người cha tinh thần” của họ chính là Tăng thống Khuông Việt. Tương tự như vậy, để lựa chọn được bản kinh phù hợp với mục đích, chắc chắn Đinh Liễn phải có sự “cố vấn, tham mưu” của một bậc cao tăng và không thể là ai khác ngoài đại sư Khuông Việt. Vậy là cho dù không có những ghi chép chính thức, cụ thể về công lao hay những đóng góp của Đại sư Khuông Việt, nhưng tản mạn qua những dòng tư liệu còn lại ta cũng có thể hình dung vai trò của Ngài với đất nước và nhất là với cha con Đinh Liễn.

Qua những tràng kinh mà khảo cổ học đã phát hiện, có thể nói ngay từ thế kỷ thứ X, dưới triều nhà Đinh (và có thể trước đó), Phật giáo nước ta có sự kết hợp giữa Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông, bởi Tổng trì đà la ni là một bộ kinh trọng yếu của Phật giáo Mật tông. Nhưng triều Đinh không tồn tại được lâu, nguyên do là bởi “mệnh trời” hay phải chịu nghiệp “gieo gió gặt bão”, hay do việc đời làm chưa thật tốt thì cũng chỉ 13 năm sau ngày Đinh Tiên Hoàng xưng đế, ngai vàng lại thuộc về người khác. Và Đại sư Khuông Việt đã không ngần ngại khi tiếp tục“nhập thế”, thử sức một lần nữa với một triều đại mới.

Sang triều Tiền Lê, thiền sư đã cùng các vị cao tăng khác xiển duơng Phật pháp, trong đó có việc dựng chùa, lập am, đúc tượng, nhất là trước đó từ triều Đinh, thiền sư đã cho thợ đốn cây tạc tượng thần Tỳ Sa Môn Thiên Vương, một vị thần Hộ pháp trong Phật giáo để thờ tại núi Vệ Linh, nhờ thế mà mấy năm sau, chính vị thần này đã ứng hiện giúp nhà Tiền Lê đánh tan tác giặc xâm lược, đem lại thái bình cho dân tộc. “Sư thường đi chơi ở núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, thích nơi đây phong cảnh đẹp đẽ, thanh u, muốn dựng am để ở. Ban đêm nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, tướng mạo dễ sợ, đến nói rằng: “Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ông nên đến đây báo cho biết”. Sư kinh ngạc thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây lành bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt, đem về khắc tượng như đã thấy trong giấc mộng để thờ”[17]

Dưới thời Đinh và Tiền Lê có ba hệ phái Phật giáo chính. Một là, học phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Hai là, học phái Thiền Vô Ngôn Thông và ba là học phái Thiền Thảo Đường. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi do thiền sư người miền Nam Ấn Độ tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi sáng lập ra. Năm 574 Ngài đi hoằng pháp đến kinh đô Tràng An – Trung Hoa. Lúc này, Phật giáo ở Trung Hoa đang gặp khủng hoảng nên Ngài đã đi tới đất Nghiệp tỉnh Hồ Nam tại đó Ngài gặp Tam tổ Tăng Xán. Sau khi được truyền tâm ấn, Ngài bái từ đệ Tam tổ Tăng Xán rồi đi về phương Nam để tiếp độ chúng sinh. Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến Quảng Châu tạm trú ở chùa Chú Chỉ và biên dịch bộ kinh “Tượng Đầu báo nghiệp” từ chữ Phạn sang chữ Hán. Năm Canh Tý (580) Ngài đặt chân lên đất Giao Châu và trụ trì ở chùa Pháp Vân để hoằng pháp. Tư tưởng của học phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tức là truyền thụ về tâm ấn của đệ Tam tổ Tăng Xán bản thể Phật tính tự nhiên bất diệt, bản thể đó cùng đồng nhất một cội rễ với bản thể của chúng sinh. Trước khi viên tịch Ngài đã truyền tâm ấn cho Thiền sư Pháp Hiền. Tất cả học phái này có 19 đời đệ tử nối tiếp từ năm 580 đến năm 1216 với rất nhiều danh tăng nổi tiếng về sự lỗi lạc như: Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Huệ Sinh, Khánh Hỷ, Viên Thông….

Đời vua Đức Tông nhà Đường (780 – 836), quan tể tướng lúc bấy giờ là Quyền Đức Dư có viết bài tựa trong cuốn Truyền Pháp Lục một đoạn sau: “Sau khi tổ Tào Khê viên tịch, Phật giáo – Thiền tông khá thịnh hành nên nơi nào cũng thấy xuất hiện chi phái của nó. Tại đất Giao Châu thì có Thiền sư Vô Ngôn Thông là người đã đem tôn chỉ của thiền sư Bách Trượng ra khai ngộ cho dân chúng. Vô Ngôn Thông chính là học phái Phật giáo thứ hai được truyền nối qua thời Đinh và Tiền Lê. Sơ tổ là người họ Trịnh quê gốc ở Quảng Châu, lúc nhỏ Ngài rất mộ đạo không màng đến tài sản tư gia. Sau đó, Ngài xuất gia tu học ở chùa Song Lâm, đất Vũ Châu (nay thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc), tính Ngài điềm đạm, ít nói nhưng sự lý thì thông hiểu. Bởi vậy người ta mới đặt danh hiệu cho Ngài là Vô Ngôn Thông. Một hôm, khi Ngài đang lễ Phật thì gặp một vị Thiền sư đến điểm hoá cho Ngài rồi đưa đi tìm tổ sư Mã Tổ tham học. Khi vừa đặt chân đến Giang Tây thì tổ sư Mã Tổ đã viên tịch, hai người bèn đến yết kiến Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (đệ tử của Mã Tổ) xin học. Bấy giờ có một vị tăng trong lớp học mới hỏi Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải rằng: “thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại Thừa?”. Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải dạy rằng: “tâm địa được thông, tuệ trí tự sáng”. Nghe xong, Vô Ngôn Thông tự nhiên ngộ đạo rồi Ngài trở về Quảng Châu trụ trì ở chùa An Hoà. Năm Canh Tý (820 theo Công lịch) niên hiệu Nguyên Hoà thứ 15 đời nhà Đường, Ngài đã đến đất Giao Châu hoằng pháp tại chùa Kiến Sơ (Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Tại đây, cả ngày Ngài ngồi quay mặt vào vách để thiền định suốt mấy năm mà không ai biết, sau có một thiền sư tên là Cảm Thành biết Ngài là bậc cao tăng đắc đạo trong hệ phái Thiền tông mới đem lòng kính trọng và thờ làm thầy”[18]. Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền nối từ năm 820 đến năm 1221 tất cả có 40 đời, trong đó có các đệ tử nổi tiếng như Thiền sư Khuông Việt đời thứ 4 được ban chức Khuông Việt đại sư, thiền sư Viên Chiếu, đời thứ 7 được ban tặng danh hiệu Cao Toạ pháp sư. Thiền phái Vô Ngôn Thông cũng chính là Thiền phái chủ chốt của Phật giáo Nam Việt và đặt nền tảng cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển rực rỡ ở triều Trần sau này.

Thiền phái Thảo Đường chính là tên một thiền sư của phái Thiền vân Môn đời Bắc Tống sáng lập. Thiền phái Thảo Đường còn được gọi là Thiền Tuyết Đậu Minh Giác phái, nguyên do là trước đây thiền sư Thảo Đường cũng là đệ tử của Hoà thượng Tuyết Đậu Trọng Hiển. Thiền sư Thảo Đường cũng từng đi đến Chiêm Thành hoằng pháp, sau ông ra kinh thành Thăng Long. Ông trụ trì chùa Khai Quốc và truyền dạy cho các đệ tử về quy tắc môn phái, lấy tư tưởng chủ đạo Thiền và Tịnh thống nhất tức là trong quá trình tu hành lấy việc tu thiền kết hợp với niệm Phật hướng theo Tịnh Độ cùng một lúc. Thiền phái Thảo Đường truyền nối từ năm 1009 đến 1205 cả thảy có 5 đời với ba vị vua và hai vị thái phó.

Như vậy tư tưởng chính của các học phái Vô Ngôn Thông, một học phái mà thiền sư Khuông Việt suốt đời phấn đấu trong sự nghiệp tu hành và hoằng pháp của mình. Trước khi viên tịch, Thiền sư Vô Ngôn Thông đã giảng tôn chỉ môn phái cho đệ tử chân truyền của mình là Hoà Thượng Cảm Thành như sau: “Khi xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn nên Ngài xuất hiện trong đời, khi pháp duyên đã sắp viên mãn, Ngài đã đem chính pháp nhãn tạng tức chân tâm vi diệu, thực tướng và vô tướng, tam muội pháp môn và y bát truyền lại cho đức Ma Ha Ca Diếp là đệ tử của Ngài. Sau khi nhận được pháp ấn từ Đức Thế Tôn thì Ma Ha Ca Diếp chính là vị tổ thứ nhất của Thiền tông. Từ vị tổ Ma Ha Ca Diếp truyền chân chỉ pháp ấn đến đời Bồ Đề Đạt Ma là đời thứ 28 ở cõi Tây Thiên. Sau đó Bồ Đề Đạt Ma vượt biển đến Trung Hoa và truyền pháp ấn cho Tổ Tăng Xán rồi kế tiếp đó là sự truyền thừa cho Lục Tổ Huệ Năng. Từ tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đến lục tổ Huệ Năng khi truyền trao chính pháp thì đều lấy y bát của Đức Thế Tôn làm minh chứng. Ban đầu chân truyền về Phật pháp phải có vật chứng thì các đệ tử mới tin phục, về sau Phật pháp truyền bá đã rộng mà y bát là một hiện tượng dễ sinh ra tranh chấp nên Lục tổ Huệ Năng không truyền y bát nữa mà chỉ truyền tâm pháp mà thôi. Người được truyền cho Mã Tổ, Mã Tổ truyền lại cho Thiền sư Bách Trượng. Thời bấy giờ ở Bắc Phương, Phật pháp đã thịnh hành nên có rất nhiều người hiểu giáo lý của Đại Thừa. Bởi vậy ta mới xuống phương Nam tìm người để truyền lại y pháp. May gặp ngươi ở đây cũng là do thiện duyên định sẵn, vậy ngươi hãy tiếp nhận chân chỉ môn phái qua bài kệ này:

“Hết thảy các pháp, đều tự tâm sinh

Tâm không chỗ sinh, Pháp không chỗ trụ

Tâm địa sở đạt, mọi nơi mọi chốn

Không gặp thiện căn, chớ vội vọng truyền”[19]

Thực sự chân chỉ của học phái Vô Ngôn Thông cũng chính là lối thiền “quan bích” một pháp tu luyện thiền tự cởi hết thảy ràng buộc để tìm về chân tâm mà khi xưa đức Bồ Đề Đạt Ma đã truyền lại và nó cũng đã truyền nối được cho rất nhiều đệ tử xuất sắc ở đất Giao Châu.

Theo Thiền Uyển Tập Anh, ta có thể tạm dịch hệ thống hoá học phái Vô Ngôn Thông tại Giao Châu từ khi khởi đầu đến hết thời Đinh và Tiền Lê lần lượt như sau:

1- Sơ tổ: thiền sư Vô Ngôn Thông (759 – 826)

2- Thế hệ thứ nhất: thiền sư Cảm Thành (? – 860)

3- Thế hệ thứ hai: thiền sư Thiện Hội (? – 900)

4- Thế hệ thứ ba: thiền sư Vân Phong (? – 956)

5- Thế hệ thứ tư: thiền sư Khuông Việt (933 – 1011)

6- Thế hệ thứ năm: thiền sư Đa Bảo.

Từ những biệt truyền ngoài giáo huấn, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm để “minh tâm thấy tính, thấy tính thành Phật” của phép Thiền “quan bích” đã được các đệ tử hệ phái Vô Ngôn Thông chú thích và truyền nối qua các đời. Cụ thể khi giảng cho Thiền sư Cảm Thành trước khi viên tịch, thiền sư Vô Ngôn Thông đã nhắn gửi tôn chỉ đó qua bài kệ:

“Các nơi đồn đãi, dối tự rao truyền

Rằng thuỷ tổ ta, gốc tự Tây Thiên

Truyền pháp nhãn tạng, coi đấy là Thiền

Một hoa năm lá, hạt giống liên miên

Ngầm ẩn mật ngữ, muôn ngàn có duyên

Tam tông đều gọi, Thiền – Tịnh thản nhiên

Tây Thiên cõi kia, Tây Thiên cõi này

Nhật – Nguyệt xưa nay, vẫn núi sông này

Tự buộc thành vướng, Phật tổ thành oan

Sai chỉ một ly, tự đi ngàn dặm

Tự ngươi quan sát, kẻo lầm đời sau.

Dẫu tìm tông phái, ta họ Vô Ngôn”[20].

Khi Thiền sư Cảm Thành luận giảng tư tưởng chính của lời kệ chú này cho Thiền sư Thiện Hội thì vấn đề chính của môn phái được toát lên ở đây là tự tâm tức Phật, tâm Phật ở mọi nơi mọi chốn. Sau khi tiếp nhận ý đó, Thiền sư Thiện Hội đã truyền lại tôn chỉ môn phái cho Thiền sư Vân Phong thông qua đoạn đối thoại:

“ Sinh tử việc lớn cần giải quyết ngay.

Sư vân Phong hỏi:

– Sinh tử bất kỳ, làm sao thoát được.

Thiền sư Thiện Hội đáp:

– Hãy nắm lấy chỗ vô sinh tử mà tránh.

Sư Vân Phong hỏi:

– Thế nào là vô sinh tử.

Thiền sư Thiện Hội đáp:

– Tự ngươi tìm nó trong sinh tử.

Phát triển tư tưởng môn phái thông qua cặp phạm trù về sinh tử, thiền sư Khuông Việt đã giảng lại cho thiền sư Đa Bảo:

“Thuỷ chung vô vật, diệu hư không

Hiểu được chân như, thể tự đồng”[21].

Qua đây ta có thể hiểu được tôn chỉ môn phái Vô Ngôn Thông qua kệ chú của thiền sư Khuông Việt như sau: “Thủy” tức là sự khởi đầu hay là sự sinh, “Chung” tức là kết thúc tức là sự tử. Bản chất của sinh tử vốn là hư không, cho nên nếu bàn về nó thì cũng giống như việc bàn về chuyện “lông rùa, sừng thỏ”. Chân gốc của tâm là diệu hư không và chân tâm cũng chính là Phật. Như vậy, học phái Vô Ngôn Thông đã có sự truyền nối về tôn chỉ này được diễn giải ở các dạng khác nhau nhưng bản chất đồng quy về một mối. Những chân chỉ được truyền nối của học phái Vô Ngôn Thông xuất phát từ thiền “quan bích” của đức Bồ Đề Đạt Ma cũng còn được gọi là dòng thiền “nhị nhập tứ hành”. “Nhị nhập” tức là nhập vào lý luận và nhập vào thực tiễn bao gồm tứ hành đó là: an nhẫn hành, tuỳ duyên hành, vô cấu hành và tuỳ pháp hành. Vậy tư tưởng “nhị nhập tứ hành” đó đã được thiền sư Khuông Việt vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của mình như thế nào?

Trên con đường hiện thực hoá các giá trị thiền phái Vô Ngôn Thông dưới triều Đinh và Tiền Lê, thiền sư Khuông Việt thực sự đã dung hội được các triết lý của Thiền tông nói chung và hệ phái Vô Ngôn Thông nói riêng vào những tín ngưỡng tâm linh bản địa của dân tộc Việt trên mảnh đất Việt Nam. Những triết lý nhà Phật là từ bi, bác ái đã tạo ra những cơ hội hoà bình tạm thời và mang tính quyết định trong chính sách đối ngoại của một nhà nước vừa mới thành lập trước sự uy hiếp của vương triều nhà Tống. Trên lĩnh vực tư tưởng, với tư cách là Tăng Thống, thiền sư Khuông Việt đã tụ hội được các lực lượng bên trong và bên ngoài cùng các tín ngưỡng khác. Bằng chứng là ở giai đoạn này không hề xuất hiện các cuộc xung đột về tư tưởng giữa Đạo giáo và Phật giáo, giữa Nho giáo và Phật giáo và các hệ phái bên trong Phật giáo. Thực sự khi Nho giáo ở giai đoạn này chưa thể đáp ứng được các nhu cầu hoạch định đường hướng trị quốc an bang thì Phật giáo đã đứng ra làm cây cột chống chủ đạo cho vương triều lúc bấy giờ.

Thiền sư Khuông Việt không chỉ đóng vai trò tham vấn về Thiền học cho triều đình, giúp vua hoạch định kế sách trị nước an dân, mà ông còn là một người thầy lớn của thiền môn. Những tinh hoa trong tôn chỉ yếu lĩnh của Thiền phái Vô Ngôn Thông như nhập lý và nhập hành thống nhất, quan bích theo chuẩn tắc thiền của Đại Thừa, song tu cả Định và Tuệ để chứng được trung quán Bát Nhã, rồi từ đó kết được pháp ấn của Đại Thừa đã được thiền sư Khuông Việt truyền lại cho thế hệ sau. Cụ thể sách Thiền Uyển Tập Anh đã chép rằng: thiền sư Đa Bảo sau khi học được pháp ấn từ Thiền Sư Khuông Việt, ông đã có tới hàng trăm đệ tử, trong số đó có nhiều người được vương triều nhà Lý hết mực trọng dụng như Thiền sư Thiền Lão, trưởng lão Định Hương… để có sự phát triển Phật giáo rực rỡ ở đời nhà Lý. Công cuộc hoằng pháp Phật giáo trên mảnh đất Giao Châu từ các đời trước đến nay đã chính thức được thực hiện từ nơi vương triều đến nơi thôn dã. Bằng chứng là các tín đồ Phật tử đâu chỉ riêng vùng kinh đô Hoa Lư – Ninh Bình mà nó đã được mở rộng rất lớn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó đặc biệt phải kể đến các trung tâm Phật giáo rất lớn ở trấn Kinh Bắc nay thuộc về Bắc Ninh. Quy mô hoằng pháp của các hệ phái Phật giáo được thể hiện bằng sự phát triển hệ thống đình chùa, xây dựng hơn 88 điểm với khoảng 20 trung tâm Phật giáo lớn. Ở giai đoạn này triều đình cũng đã cử người sang Trung Quốc thỉnh Đại Tạng Kinh, tạo các điều kiện giao lưu học hỏi giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo các địa phương khác của Trung Quốc. Thực sự những thế hệ Thiền tăng kể từ sau thế hệ Thiền sư Khuông Việt đã kế thừa được rất nhiều tinh hoa về học vấn Phật pháp. Và đây cũng là nền tảng đầu tiên của việc ra đời Thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử thời nhà Trần.

Sự vận dụng thành công tư tưởng tu nhập thế và xuất thế của Thiền sư Khuông Việt ta có thể thấy qua bài thơ:

“Mộc trung nguyên hữu hỏa

Nguyên hỏa phục hoàn sinh

Nhược vị mộc vô hỏa

Toàn toại hà do manh.”

Dịch:

“Lửa trong cây có sẵn

Dù tắt lại bùng ngay

Nếu bảo cây không lửa

Sát mạnh sao cháy cây”[22].

Cây chính là thế pháp là bản thân ta là hình ảnh tượng trưng cho chúng sinh, còn lửa chính là tâm Phật thường trụ, là sự giác ngộ, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tu hành giác ngộ thành Phật. Sự cọ xát cây để có lửa tức là trong bất kỳ nghiệp cảnh nào ta cũng cần phấn đấu và tu luyện lấy sáu căn cọ sát với sáu trần, như cọ sát hai thanh gỗ cho lửa cháy, gió thổi, khói tan tro bay hết còn lại thực tướng của nó là chân tâm thực tướng vốn vô tướng.

Sự quan tâm của những người đứng đầu nhà nước đối với đạo Phật là điều kiện rất thuận lợi để Phật giáo phát triển cũng như cống hiến cho đạo pháp, dân tộc, hơn thế nữa các tôn giáo khác đã có sự dung hòa, hỗ tương nhau. Điều này đã thể hiện tính thống nhất Tam giáo là đạo Nho – đạo Lão và đạo Phật trong một chỉnh thể phát triển ổn định, đồng thời thống nhất được với các hệ phái khác như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường và các học phái Phật giáo Mật Tông thời bấy giờ. Thực sự Phật giáo Việt Nam với tính chất Mật Tông và Thiền Tông viên dung hoà hợp trên một vùng lãnh thổ có cương giới cũng bắt đầu được đánh dấu từ thời Đinh và Tiền Lê, điều này được minh chứng bằng các cột kinh Mật Tông được tìm thấy ở vùng sông Hoàng Long – Ninh Bình. Ngoài ra, với phương châm “nhập gia tuỳ tục”, “Tam giáo đồng nguyên” đã khiến cho Thiền tông ở đất Giao Châu kể từ thế hệ Thiền sư Khuông Việt đã có những bước phát triển khác biệt so với Thiền tông Trung Hoa cho dù là Phật giáo dưới triều Đinh và Tiền Lê chưa có những bước phát triển mạnh mẽ như ở thời nhà Lý và nhà Trần nhưng nó là một giai đoạn rất quan trọng, giai đoạn gieo mầm những nhân tài kiệt xuất của Thiền môn và Thiền sư Khuông Việt là một trong số đó. Ngài đã để lại cho đời sau một tấm gương lớn về phẩm hạnh và đức hạnh trên con đường tu học Phật pháp. Khi đạo quả đã mãn Ngài về lập chùa Quy Ẩn và dạy học ở vùng núi Thanh Tước, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy tư liệu lịch sử viết về Ngài trải qua năm tháng và chiến tranh bị thất thoát rất nhiều, nhưng ảnh hưởng của những Thiền tăng học phái Vô Ngôn Thông trong triều đình nhà Đinh và tiền Lê vẫn ngời sáng. Trên tấm bia mang mã số 06944 tại Viện nghiên cứu Hán Nôm ghi địa danh thôn Thuỵ Hương, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên – nơi Ngài về ở ẩn có đoạn viết:

“Thường nghe nơi học xá được dựng lên mới có cơ đồ ba trăm năm nhà Đường, nơi đình miếu được tu sửa khang trang mới có sự nghiệp nhà Tống ba trăm năm. Vậy là việc nhân nghĩa tất sẽ có phúc báo đời sau, đời sau lẽ nào không noi theo gương sáng đó. Nay nhân từ đầu bản triều đến nay mọi sự an bình nên hưng công động thổ xây dựng chùa này và lập ra văn bia, những mong khai sáng được hiền triết đời trước, chấn hưng đạo thống ở đời sau. Lấy bia văn này để soi tâm của Khổng Tử, Mạnh Tử lấy nghĩa việc này để rạng đức Chu Tử, Trình Tử. Nay khâm phụng tiền thánh, các vị sư tổ và các vị tiên hiền bản xã.

– Đình triều Quốc sư Khuông Việt

– Trần triều Thái thú Trịnh Quân

– Nho nghiệp Nguyễn Triệu Hiên

– Chính Hoà năm thứ 12 (1692) năm Bính Ngọ mùa Thu”[23].

3.3. Văn học và nghệ thuật.

Có thể nói rằng triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê (938 – 1009) kéo dài chưa đầy một thế kỷ, lại ở giai đoạn đầu của quá trình tự chủ nên khó có thể hình thành nên một diện mạo văn học hoàn chỉnh. Ở triều đại Ngô, chưa có gì ngoài lời bàn của Ngô Quyền về kế sách của Hoằng Thao (Dự phá Hoằng Thao chi kế). Triều Đinh cũng chỉ có lời sấm nhằm đả kích Đỗ Thích. Chỉ đến thời Tiền Lê (980 – 1009), mới thấy xuất hiện những tác phẩm thi ca như “Quốc tộ” của Đỗ Pháp Thuận, “Vương lang quy”, đoạn ngữ lục và bài kệ thị tịch  của Ngô Chân Lưu. Những tác phẩm này đều có tính chính luận sâu sắc phản ánh những vấn đề liên quan trực tiếp đến thế sự và vận mệnh dân tộc.

Trước hết là bài “Vương lang quy hay Ngọc Lang Quy” của Ngô Chân Lưu dù theo nhan đề nào cũng không có gì quan trọng. Bởi lẽ nó không làm giảm đi ý nghĩa nội dung của bài Từ khúc PGS Bùi Duy Tân cho rằng: “Vương lang quy thể hiện một tình cảm chân thành, một thái độ thân mật, một giọng điệu chữ tình, vừa đằm thắm, đôn hậu, vừa cứng cáp, sáng trong, vượt lối thơ bang giao thù tạc nhiều sáo ngữ, lắm từ chương”. Bài Từ, ngoài cảm xúc chân thành làm nên giá trị như đã nói ở trên còn giàu ý nghĩa về thể loại. Vương lang quy là tác phẩm mở đầu cho thể tài Từ khúc trong văn học cổ, một tài năng thăng hoa để trở thành danh  ngữ Tống Từ, tiếp nối Đường thi, Hán phú… Tác phẩm quả thực có nhiều chữ hay, tứ đẹp, vừa lụa là gấm vóc, vừa tao nhã điển chương”[24].

Bài Từ này được Khuông Việt viết năm 987, theo lời đề nghị của vua Lê Đại Hành, nhân dịp tiễn đưa sứ giả Lý Giác nhà Tống trở về Trung Hoa sau khi công việc bang giao Việt – Trung hoàn thành tốt đẹp. Sau đây là văn bản bài Từ chép trong Thiền Uyển Tập Anh:

“Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,

Thần tiên phục đế hương

Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang (lãng),

Cửu thiên quy lộ trường

Nhân tình thảm thiết đối ly thương,

Phan luyến sứ tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,

Phân minh báo ngã hoàng.”

Dịch:

“Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương

Thần tiên lại đế hương

Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương

Về trời xa đường trường

Tình thảm thiết

Chén lên đường

Vin xe sứ vấn vương

Xin đem thâm ý vì biên cương

Tâu vua tôi tỏ tường.”[25]

Đây là một văn bản thuộc loại văn học bang giao Việt – Trung sớm nhất trong văn học trung đại Việt Nam, gắn với các sự kiện quan trọng của lịch sử ngoại giao hai nước Việt – Trung. Đây cũng là tác phẩm văn học cắm cái mốc về vấn đề Phật giáo hoà đồng cùng dân tộc, nhập thế hành đạo, tham gia chính trị mang tinh thần hộ quốc an dân trong thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tư tưởng hoà bình, hữu nghị thể hiện rõ. Hai câu kết đánh giá cao hảo ý của sứ giả, vì sứ giả Lý Giác đã công nhận nền độc lập, công nhận nền văn hoá văn hiến của ta, coi vua nước ta ngang hàng với vua Trung Quốc như qua bài thơ của ông viết tặng, trong đó có hai câu kết:

“Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.”

Dịch:

“Ngoài trời lại có trời soi chiếu

Sóng lặng khe đầm, rọi trăng thu.”[26]

Đồng thời, đây còn là bài thơ viết theo thể Từ khúc đầu tiên trong văn học trung đại Việt Nam và là một trong những tác phẩm sớm nhất, có vị trí và vai trò mở đầu dẫn đường cho văn học viết Việt Nam sau ngày nước nhà giành lại độc lập. Cùng với bài thơ của thiền sư Đỗ Pháp Thuận thì đây cũng là một trong hai tác phẩm đầu tiên mang nội dung yêu nước và nhân văn trong lịch sử văn học dân tộc. Cả hai tác phẩm đều thuộc về văn học Phật giáo, tác giả là những vị thiền sư cao tăng đắc đạo. Điều đó khẳng định bộ phận văn học Phật giáo đã chính thức mở đầu cho nền văn học viết Việt Nam tính từ khi nước nhà được độc lập tự chủ với chiến thắng của Ngô Quyền năm 938

Thứ hai, ý chỉ của đoạn ngữ lục vấn đáp giữa thầy và trò mà thiền sư Khuông Việt khai thị cho đệ tử Đa Bảo:

“Nhất nhật, nhập thất đệ tử Đa Bảo vấn vân: Như hà thị học đạo thủy chung?

Sư vân: Thủy chung vô vật diệu hư không, hội đắc chân như thể tự đồng.

Bảo vân: Như hà bảo nhậm?

Sư vân: Vô nhữ hạ thủ xứ.

Tiến vân: Hòa thượng đạo liễu dã?

Sư vân: Nhữ tác ma sinh hội

Bảo tiện hát.”

Dịch:  Một hôm đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: Thế nào là học đạo thuỷ chung?

Thiền sư trả lời: Thuỷ chung không vật diệu hư không,

Hiểu được chân như, thể tự đồng.

Đa Bảo hỏi tiếp: Làm sao giữ được?

Thiền sư đáp: Không có chỗ cho ông xuống tay.

Đa Bảo lại hỏi: Hoà thượng nói xong rồi?

Thiền sư trả lời: Ông làm sao hiểu.

Đa Bảo bèn hét lên”.[27]

Ở đây, học trò hỏi về cái lẽ rốt ráo của đạo thuỷ chung, tức trò muốn thấu triệt ngọn nguồn của đạo, thì được thầy trả lời: “Thuỷ chung không vật diệu hư không, Hiểu được chân như, thể tự đồng”. Câu trả lời của thầy đã thể hiện tư tưởng chân không diệu hữu, tâm pháp nhất như, vạn vật nhất thể, tâm vô phân biệt, chúng sinh dữ Phật đồng, tất cả cùng một bản thể chân như đồng nhất, mà kinh văn hệ Bát Nhã, cụ thể là tư tưởng cốt tuỷ của kinh Hoa nghiêm, kinh Kim cương Bát nhã ba la mật đã nêu, để khai thị cho đệ tử. Trong Kim cương Bát nhã ba la mật kinh, đức Thế Tôn có dạy: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như lai”. Nếu dùng sắc tướng thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta, Chẳng khác nào người làm theo tà đạo, Không bao giờ thấy được Như lai”[28]Và Đức Phật dạy tiếp “Tri ngã thuyết pháp, Như phiệt dụ giả, Pháp thượng ưng xả, Hà huống phi pháp”. Nghĩa là: Biết ta nói pháp, Như thuyền bè đưa người sang sông. Chính pháp còn phải bỏ đi, Huống hồ là phi pháp. Bởi vì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” – Phàm những gì có hình tướng đều không có thật. Cũng trong kinh văn trên, hai lần đức Thế Tôn còn khuyên các đại đệ tử: “Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm” – Đừng bám vào sắc mà sinh tâm, đừng bám vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sinh tâm. Cuối cùng, Ngài khuyên “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Nghĩa là sinh khởi tâm không dính bám vào bất kỳ chỗ nào không trụ tướng, không chấp tướng. Những lời dạy trên của Đức Thế Tôn đã thể hiện tư tưởng vô trụ, phá chấp triệt để nhằm giúp người học đạo thấu rõ bản thể chân như, đạt được Phật tính.

Đồng thời, theo tinh thần của kinh Hoa Nghiêm thì bản thể là lý pháp giới, thế giới còn hiện tượng là sự pháp giới, với quan niệm: “Nhất đa tương dung, lý sự vô ngại, tương nhập tương tức”. Nghĩa là “Một và nhiều dung hợp nhau, nguyên lý và sự vật, cũng như vạn sự vạn vật không có gì làm ngăn trở nhau, cái này thể nhập vào cái kia, cái kia cũng tức là cái này. Đây chính là quan niệm “đồng nhất trong sai biệt”[29].

Trong đoạn Ngữ lục vấn đáp trên, Thầy biết học trò của mình còn chấp pháp, tức còn bám víu vào hình tượng, hiện tượng và sự tướng nên thầy muốn trò thoát ra khỏi cái sở kiến, chấp thủ ấy bằng cách nói thẳng là không có vật thuỷ, chung (trước và sau) đều như nhau, tất cả đều là “diệu hư không”, nó có đó nhưng cũng không thật có, nó cùng một bản thể chân như, cùng một bản lai diện mục không nên phân biệt, đối đãi. Nếu người học đạo thấu triệt cái lý của bản thể chân như tức thông tỏ cái đạo thuỷ – chung thì lập tức sẽ giác ngộ. Nhưng học trò vẫn chưa rõ nên mới hỏi lại: “Làm sao giữ được ?”. Nghĩa là, lúc này trò vẫn còn bám vào, muốn giữ lấy cái sở kiến điều đã biết, đã thấy, thì thầy mới gợi mở thêm: “Không có chỗ cho ông xuống tay”, tức thầy lại phủ nhận một lần nữa, bằng cách đánh mạnh vào tâm thức của trò, buộc trò phải xa lìa, buông xả cái đã thấy, điều đang truy tìm, với tinh thần “vô trụ” tức không bám vào chỗ nào, “siêu việt hữu vô” tức vượt lên trên giữa có và không, ý của thầy là muốn trò đừng bám víu, đừng cố giữ lấy mà phải buông xả tất cả, có như thế thì mới có thể vượt lên trên hữu – vô, nên mới bảo: “Không có chỗ cho ông xuống tay”. Đến đây, học trò đã thức tỉnh vì thế mới hỏi lại: “Hoà thượng nói xong rồi à ?”. Và lúc này, thầy đã biết rõ tâm của trò, nhận thấy căn cơ của trò đã chín muồi, nên một lần nữa, thầy đã dồn ép trò vào cái thế tận cùng, để trò bứt phá triệt để ra khỏi cái tư duy phân biệt đối đãi, thoát ra khỏi chỗ đang bám víu, để đạt đến chỗ liễu ngộ, vô trụ, siêu thoát qua câu trả lời: “Ông làm sao hiểu”. Chính lúc đó, trò mới hét lên một tiếng. Tiếng hét ấy là tiếng kêu biểu đạt trạng thái bừng vỡ, đốn ngộ, triệt ngộ, thấu rõ tất cả đều là không: vạn pháp giai không”, chủ trương không phân biệt tâm pháp nhất như”, biểu hiện tư tưởng “chân không diệu hữu”, mang tinh thần “lý, sự dung thông” của kinh Hoa nghiêm.

Thứ 3 là bài kệ thị tịch của thiền sư:

“Mộc trung nguyên hữu hỏa

Nguyên hỏa phục hoàn sinh

Nhược vị mộc vô hỏa

Toàn toại hà do manh.”

Dịch:

Lửa trong cây có sẵn

Dù tắt lại bùng ngay

Nếu bảo cây không lửa

Sát mạnh sao cháy cây”[30].

Bài kệ thị tịch này là một thể loại văn học Phật giáo, được Khuông Việt thiền sư căn dặn cho học trò là Đa Bảo trước khi tịch để giảng về sự ngộ đạo của mình. Đây là bài giảng cuối cùng mà tổ thứ tư của thiền phái Vô Ngôn Thông truyền đăng cho Đa Bảo. “Mộc” chỉ cho con người, chỉ cho chúng sinh. “Hỏa” chỉ cho Phật tính, cho tính giác ngộ. Qua bài kệ này, người đọc còn nghiệm ra được hàm ý sâu xa trong lời nhắn gửi của quốc sư, không chỉ trên đường đạo mà đường đời cũng vậy, nếu không tự tin vào mình, phải nương dựa người khác thì chẳng bao giờ có được thành công. Nếu dân tộc Đại Việt ở thời điểm đó không thấy được và không tin vào sức mạnh của mình thì sẽ mãi mãi mang tâm lý khiếp sợ nước lớn lân bang, làm sao có đủ tinh thần và ý chí để giữ nước? Trở về khám phá hạt minh châu của chính mình, tự khơi dậy nội lực của mình, đó chính là chìa khóa thành công ba lần thắng Tống, ba lần đuổi Nguyên của dân tộc Đại Việt trong cuộc đối đầu hoàn toàn không cân sức mà người ngoài cuộc thường đánh giá là “châu chấu đá xe”. Từ cái nhìn bình đẳng trong tất cả chúng sinh đều có Phật tính, bài thơ gợi cho mọi người suy ngẫm: chân lý không thuộc về riêng ai, chân lý không thuộc về người đi trước như Phật tổ, cũng không thuộc về kẻ mạnh như nước lớn. Chân lý là của tất cả mọi người và ai cũng có cơ hội tiếp cận, ai cũng có khả năng thành Phật. Điều cần nhất là phải tự tin mình sẽ giác ngộ, mình sẽ thành Phật, không tự tin sao có thể bước đi trong cuộc đời, sao có thể cầm gươm đánh giặc, sao có thể đạt tới “đại ngộ”? Đây quả thật là một quan điểm nền tảng. Chính nhờ tự tin mới có đủ bản lĩnh “phá chấp” để đạt đến tinh thần “vô úy” như thiền sư Vạn Hạnh đời Lý đã nói: “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”[31]. “Không sợ hãi” là một bản lĩnh lớn của con người thời đại. Không sợ hãi vì hiểu ra quy luật tuần hoàn sinh, trụ, dị, diệt của tự nhiên. Sinh, lão, bệnh, tử của đời người. Không sợ hãi cũng vì tự tin vào cái bất biến bên trong có thể ứng phó với cái vạn biến bên ngoài. Đã tự tin vào mình, không sợ sinh tử, không lo thịnh suy thì đâu còn sợ giặc mạnh ta yếu, giặc đông ta ít, đánh giặc có thể hy sinh tính mạng, chỉ thấy cần làm những việc đáng làm, thuận theo lẽ phải. Khi đã không sợ cái chết thì có thể đánh giặc ngoại xâm với nghĩa khí át cả sao Ngưu và tâm thế ung dung tự tại, vì thế mà chiến thắng là điều tất yếu.

Con người Đại Việt của buổi đầu kỷ nguyên độc lập nhờ đứng vững trên đôi chân của chính mình, ý thức được “trong cây vốn có lửa” là sức mạnh nội tại, độc lập tự cường nên đã xây dựng được một thời đại huy hoàng. Tuy lấy đạo Phật làm quốc giáo, cả nước theo đạo Phật, chùa chiền khắp nơi, vua quan cũng là Phật tử, thậm chí vua còn đi tu trở thành tổ sáng lập một Thiền phái của Việt Nam (như trường hợp Trần Nhân Tông) nhưng không có niềm tin mù quáng hay sự sùng bái thần quyền đến đánh mất mình cũng không có sự đè nén của thần quyền lên đời sống con người. Đấy chính là do tinh thần khai phóng, tôn trọng con người đặc biệt của Phật giáo Đại Việt và các thiền sư Đại Việt. Tinh thần “Mộc trung nguyên hữu hỏa” như một tuyên ngôn đã cho thấy diện mạo của Phật giáo Thiền tông Việt Nam ở buổi đầu kỷ nguyên tự chủ là một tôn giáo, triết học giàu chất nhân văn, lấy con người trần thế làm trung tâm. Chính bởi đề cao năng lực của con người nên Phật giáo đã xứng đáng với ngọn cờ chủ soái về hệ tư tưởng trong giai đoạn đầu đòi hỏi có những con người mạnh mẽ, tự tin, bản lĩnh. Thích tự do, bình đẳng, linh hoạt, uyển chuyển trong cuộc sống là cá tính của người Việt. Đó cũng là chỗ gặp gỡ với những tinh yếu của Phật giáo Thiền tông. Vì vậy các Thiền sư của buổi đầu nền tự chủ trong đó có Khuông Việt đã thiện dụng những điểm tinh yếu này để khơi dậy, nâng cao những nét đẹp, tích cực vốn có trong bản sắc dân tộc, phát huy hết tiềm lực của nó nhằm trước hết tạo nên những con người tự tin, dám nghĩ, dám làm, độc lập sáng tạo, không lệ thuộc, dựa dẫm. Có con người mạnh mẽ mới có được đất nước phát triển cường thịnh với một vận hội huy hoàng

Như vậy giai đoạn đầu của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền với những bước đi chậm chạp, chắc chắn đang dần bước vào thời đại phục hưng những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của dân tộc sau hơn một thiên niên kỷ trong đêm trường nộ lệ, với tư cách và vai trò của một vị Thiền sư, quyền ngang Tể tướng triều đình. Về đối nội, thiền sư đã cùng các vị cao tăng và đại thần khác giúp vua trị nước an dân, bình ổn cuộc sống. Về đối ngoại, thiền sư đã cùng với thiền sư Đỗ Pháp Thuận đón tiếp phái đoàn sứ giả nước bạn trên tinh thần chỉ đạo của tư tưởng hoà bình và tình hoà hiếu hữu nghị, nhờ thế mà công cuộc bang giao hai nước Việt – Trung đã diễn ra một cách tốt đẹp, thân ái. Đối với Phật giáo, với tư cách và vai trò của một vị Tăng thống, vị Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, thiền sư đã góp phần hoằng dương Phật pháp, chủ trì chứng minh việc khắc kinh trên đá, đã gắn kết Phật giáo với dân tộc, hoà cùng dân tộc, tạo nên một Phật giáo Đại Việt nhập thế, để các giai đoạn sau kế thừa và phát triển. Đối với văn học, bên cạnh đoạn Ngữ lục và bài Kệ thị tịch khai ngộ truyền pháp cho đệ tử Đa Bảo, thì thiền sư còn để lại một bài Từ khúc. Đây là tác phẩm được viết theo thể Từ khúc đầu tiên, là tác phẩm văn học bang giao sớm nhất hiện còn trong văn học Việt Nam, cũng là một trong hai tác phẩm có vị trí mở đầu của dòng văn học viết Việt Nam sau ngày nước nhà giành lại độc lập. Nó mang đậm tư tưởng yêu nước, yêu hoà bình và tinh thần độc lập tự chủ nhân văn cao đẹp.

3.4. Tiểu kết chương 3

Qua những dữ kiện chứng tích trình bày trên cũng đủ nói lên thiền sư Khuông Việt, chúng ta không cần ca ngợi mà ai cũng đều phải công nhận là nhân vật nổi bật phi phàm của lịch sử, là một quốc sư thạch trụ kiên cố của các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê và Lý, một viên ngọc sáng ngời của thiền phái Vô Ngôn Thông và cũng là một trong những thiền sư đắc pháp cao thâm của Phật giáo Việt Nam. Thiền sư có tài năng xuất chúng, khống chế được tất cả tư tưởng đa khuynh của xã hội, của chính trị, của các tôn giáo đương thời để phục vụ chủ thuyết của Ngài sớm đạt thành mục đích

Chẳng những thế, Ngài còn kết hợp giữa Nho giáo và Phật giáo, giữa Thiền tông  và Mật tông. Điều này giúp Ngài thành công trên con đường cố vấn chính trị, quân sự, ngoại giao giúp dân tộc ta đứng vững trong những ngày mới giành được độc lập. Sâu thẳm hơn nữa, qua bài kệ thị tịch nói lên sức mạnh nội tại của mỗi con người, độc lập tự chủ của đất nước với một niềm tin vững chắc sẽ đi đến thành công. Ngài quả thực không chỉ chứng được tâm yếu mầu nhiệm của tư tưởng Đại Thừa Phật giáo mà còn mang chỗ chứng đắc của tâm mình áp dụng vào công cuộc nhập thế siêu phàm tùy duyên hóa độ quần sinh. Có thể xác định một lần nữa thiền sư Khuông Việt chính là Bồ Tát hóa thân của phàm Thánh đồng cư.

C. KẾT LUẬN

Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và Tăng, Ni tại Việt Nam nói riêng luôn kế thừa và phát huy ảnh hưởng của thiền sư Khuông Việt đối với lịch sử dân tộc trên lĩnh vực chính trị – tư tưởng và đoàn kết dân tộc – tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Nếu tinh thần “ hộ quốc an dân” của Phật giáo Ngô – Đinh – Tiền Lê được thể hiện thông qua những đóng góp tích cực, vai trò và những hoạt động của các bậc cao Tăng có uy tín được triều đình trọng dụng. Các thiền sư trong Phật giáo đã tạo nên những bước phát triển rực rỡ cho văn hóa dân tộc, tạo nên nền văn hóa Đại Việt trong thời kỳ này. Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta từ khi mới du nhập vào đất Việt, Phật giáo đã hòa mình cùng văn hóa truyền thống của dân tộc và tô bồi cho nền văn hóa, đạo đức nhân văn, xây dựng tình người nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Ngày nay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước các tôn giáo nói chung, Đạo Phật nói riêng đều có điều kiện tham gia vào công việc của đất nước để góp phần xây dựng nước nhà ngày một vững mạnh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Để làm được điều này trước hết các Tăng, Ni sống đúng với phẩm chất đạo đức của một vị tu sĩ, thực hiện theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, giảng dạy Đạo pháp nhưng đồng thời tuyên truyền giáo dục truyền thống yêu nước, văn hóa, đạo đức, lối sống cho quần chúng nhân dân. Luôn là những bậc tu hành mẫu mực, xây dựng ngôi nhà tâm linh ở mỗi địa phương hoàn chỉnh về giáo dục và nhân cách, giúp con người biết yêu Tổ quốc, yêu thương nhân loại, bảo vệ và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Giữ gìn cảnh quan và môi trường xanh, sạch đẹp tạo thành Cực Lạc hiện tiền. Bên cạnh đó Giáo hội Phật giáo Việt Nam tích cực tham gia củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Nếu như Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê với những ông vua mến mộ đạo Phật và sáng suốt thời bấy giờ, cùng sự trợ giúp của các thiền sư đã xây dựng và thống nhất ý thức hệ tư tưởng, ý thức dân tộc, khơi gợi được tình đoàn kết, chất keo sơn, gắn bó, kế thừa, phát huy truyền thống con cháu lạc hồng, đồng cam cộng khổ. Nối tiếp tinh thần tốt đẹp ấy thì Phật giáo Việt Nam ngày nay với phương châm hành động: “Đạo Pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, luôn xác định vai trò tiên phong của mình trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Chính sự hoằng dương Phật pháp của các Tăng, Ni hiện nay đang từng bước đồng hành cùng dân tộc. Với từ bi và trí tuệ của đạo Phật xóa bỏ mọi hận thù, tranh chấp, kiện tụng để mọi người yêu thương nhau hơn, không còn loạn lạc và chiến tranh sẽ kết thúc.

Trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng, ý nghĩa định hướng giá trị văn hóa Phật giáo Đại Việt của các thiền sư thời Ngô – Đinh –Tiền Lê  đã bắt đầu có sự dung hợp giữa Đạo Phật – Đạo Nho và Đạo Lão, mặc dù có những lúc thăng trầm nhưng Đạo Phật có những vị trí quan trọng trong lòng xã hội. Những tư tưởng đó còn nguyên giá trị trong bối cảnh xã hội Phật giáo Việt Nam ngày nay, Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách, quan điểm, chủ trương tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo ra nền chính trị, văn hóa dân tộc mang đậm bản sắc con người Việt. Với tài năng của các bậc tiền bối đã dung hợp được hai phương diện xuất thế và nhập thế để trở thành một lối sống đặc biệt cho người Phật tử. Các hoạt động giao lưu về giáo lý của các tôn giáo với nhau tạo ra sự dung thông, hòa hợp và mang nét đặc trưng riêng của mỗi tôn giáo, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, đoàn kết, hòa hợp của các tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Với sự nhiệt tâm dựng đạo, cứu đời không chỉ riêng thiền sư Khuông Việt mà các thiền sư trong thời kì này luôn có những ảnh hưởng mạnh mẽ trong mọi thời đại. Thiền sư Khuông Việt sau khi lui về ở ẩn, Ngài đã đào tạo nhân tài cho quốc gia tại chùa Trấn Quốc, Ngài không chỉ truyền bá về tư tưởng đạo Phật mà còn có sự phân tích đánh giá về Nho học và sự cần thiết của các tôn giáo trong mọi thời đại. Hiện nay nền giáo dục của nước ta không ngừng thay đổi để có những chiến lược và phương pháp tạo ra “nguyên khí” của quốc gia, đào tạo ra những người có nhân cách, phẩm chất, đạo đức cho quốc gia dân tộc. Hiện nay các ngôi chùa đều có những hình thức truyền bá đạo pháp ngày càng mạnh mẽ, ở mọi không gian và thời gian, ngày càng phong phú và đa dạng như các khóa tu mùa hè, những ngày tu bát quán trai, quy y Tam Bảo, công việc từ thiện xã hội, lễ kỉ niệm những anh hùng liệt sỹ…Hình thức tuyên truyền giáo dục, đạo đức của đạo Phật vô cùng phong phú và đa dạng giúp con người cải tà quy chính, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trên 30 năm Đại sư Khuông Việt đã phục vụ trong các triều đại của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đã thể hiện được tài năng nhiều mặt của mình. Sự cống hiến to lớn đáng ghi nhận không những trong lĩnh vực sinh hoạt Phật giáo mà còn cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao của đất nước.

Sự chuyển giao quyền lực trong thời loạn 12 sứ quân, cho đến Đinh Liễn, Lê Hoàn. Năm 907 đến 980 (dài 73 năm), các nhà nghiên cứu nêu ra một số vị thiền sư bác học, trong đó người để lại thành tích nhiều nhất và có ảnh hưởng nhất đối với xã hội đương thời chính là Đại sư Khuông Việt tức Ngô Chân Lưu. Ngài có vị trí đặc biệt trong lịch sử ngoại giao và văn học dân tộc. Điều này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam khi ấy đã thực hiện tốt chức năng đào tạo những người trí thức có khả năng gánh vác không những công việc của Đạo mà còn cả việc nước, việc dân. Người sinh ra trong thời cuộc và biết tập hợp sức nước, sức dân, biết nhìn thế cuộc của đất nước theo quỹ đạo đa nguyên mà dân chủ.

Tư tưởng chủ đạo trong Kinh Kim Cương mà Thiền sư Thanh Biện đã đề xuất đó là “tất cả các pháp đều là Phật pháp” đã được Khuông Việt Đại Sư ứng dụng vào hệ thống chính trị và ngoại giao của Đại Việt. Hiện nay, nếu tư tưởng chủ đạo này được ứng dụng vào xã hội hiện đại không những dân giàu nước mạnh mà sẽ tạo ra một cường quốc có sức mạnh nội tại độc lập tự cường, tạo ra một đất nước có điểm đến an toàn cho nhân loại. Đại sư đã vận dụng phương pháp tạo ra được sức mạnh  đoàn kế dân tộc, sức mạnh của toàn xã hội. Ngài có trách nhiệm với lịch sử qua tinh thần Tứ Nhiếp Pháp phải đồng cam cộng khổ với dân, lắng nghe nguyện vọng của dân còn phải nhận thức được vai trò quan trọng của dân: “Dân là gốc của nước, được dân thì được nước, nhà nước là thuyền, dân là nước: Nước chở thuyền được nhưng cũng làm lật được thuyền”.[32]

Với phương pháp của đại sư Khuông Việt xuất phát từ phương pháp luận và học lý “tất cả pháp đều là Phật Pháp” như thế, Ngài mới có thể ung dung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi sự hoàn thành việc đời như một chứng tích cho sự hoàn thành việc đạo, chính nghĩa cho dân tộc – đất nước. Do vậy, chính sinh khí này của Khuông Việt đã thổi vào lòng dân tộc và đất nước được bình ổn và  phát triển, độc lập, dân chủ và tự cường trước một phương bắc đầy hung hãn như Hổ đói.

Triết  lý hành động của Khuông Việt Quốc Sư dựa trên một nhận thức luôn coi cuộc đời là nơi mình có thể giải thoát được bằng chính nhận thức của mình. Tinh thần khế lý và khế cơ theo triết học Phật giáo nhấn mạnh thế giới giác ngộ cũng như hành động của Phật giáo không nằm bên ngoài cuộc đời và con người, không cần đi tìm bất cứ một thế giới nào khác. “ Trong cây vốn có lửa”, cọ sát lửa sẽ cháy. Trong mỗi người đều có chất Phật tu tập sẽ hiển lộ ra. Trong xã hội có sức mạnh tiềm tàng vô biên khi tác động đúng lúc, đúng chỗ thì sức mạnh tiềm tàng như lửa đó sẽ bốc cháy. Điều này giải thích cho ta tại sao Khuông Việt đã ung dung, tích cực tham gia vào việc nước, việc dân và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp dân chủ và đa dạng thành phần để bảo vệ độc lập của tổ quốc Việt.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Đào Duy Anh (1969), Đất nước Việt Nam qua các thời đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  2. Đào Duy Anh (1958), Lịch sử Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
  3. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
  4. Thiền Uyển Tập Anh, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Phân viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản văn học Hà Nội, năm 1999.
  5. Đoàn Trung Còn – Các tông phái Đạo Phật – NXB Thuận Hóa năm 1995.
  6. Trần Trọng Dương, Khuông Việt Thiền Sư hay phức thể dung hội Nho – Phật, in trong sách Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (Học viện Phật giáo TP.HCM và hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, NXBVHTT, 2010).
  7. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
  8. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Hội thảo khoa học quốc tế: Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.
  9. Nguyễn Quang Ngọc, tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Hà Nội, năm 2006.
  10. Đại Việt sử ký toàn thư Tập 1, NXB Văn hóa – thông tin Hà Nội, năm 2000.
  11. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học năm 2010.
  12. Viện hàn lâm khoa học xã hội, tạp chí triết học, số 2 (165) tháng 2, 2005.
  13. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký toàn thư, tập 1, Cao Huy Du phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, NXB KHXH, Hà Nội
  14. Nguyễn Hồng Dương – Thượng tọa Thích Thọ Lạc (2010), Phật giáo thời Đinh – Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  15. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  16. Đại Việt sử ký toàn thư tập 1 (1983), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  17. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  18. Đại Việt sử ký toàn thư toàn tập (2010), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  19. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời đại, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh.
  20. Trần Văn Giàu (2008), Tổng tập, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
  21. Trần Văn Giáp (2000), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII, (Tuệ Sỹ dịch), Nxb Sài Gòn, TP.Hồ Chí Minh.
  22. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Hội thảo khoa học quốc tế: Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập.
  23. Hoàng Xuân Hãn (2003), Lý Thường Kiệt – lịch sử ngoại giao và tông pháp triều Lý, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội
  24. Trần Thị Hạnh (2012), Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo thời Lý, giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  25. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo và Nxb Từ điển Bách Khoa.
  26. Nguyễn Duy Hinh (2004), Một số bài viết về Tôn giáo học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  27. Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Lý”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 1.
  28. Nguyễn Duy Hinh – Lê Đức Hạnh (2011), Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb văn hóa thông tin và Viện văn hóa.
  29. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
  30. Đỗ Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng ở Thăng Long Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội
  31. Đỗ Quang Hưng (2011), Tham luận “Phật giáo và chính trị đầu kỷ nguyên độc lập – tiếp cận từ luận điểm của M.Weber, Trường ĐHKHXH&NV HN – ĐHQG Hà Nội
  32. Nguyễn Quang Ngọc (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
  33. Hoàng Tân Xuyên (2012), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.
  34. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
  35. Nguyễn Hữu Vui ( 2002 ), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị – Quốc gia, Hà Nội.

(1) Nguyễn Quang Ngọc, tiến trình lịch sử Vệt Nam, NXB Hà Nội, năm 2006 trang 66-70.

 

[2] Thích Gia Quang, https:/www.daitangkinhvietnam.org.

[3] Thiền Uyển Tập Anh, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch. Phân Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học  Hà Nội, năm 1990, trang 47.

[4] Thiền Uyển Tập Anh, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch. Phân Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học  Hà Nội, năm 1990, Sđđ trang 172.

[5] Thiền Uyển Tập Anh, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch. Phân Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học  Hà Nội, năm 1990, Sđđ trang 172.

[6] Thích Thanh Từ, https://www.thienviendaidang.net.

[7] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 45

[8] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 47

[9] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 42

[10] Đại Việt sử ký toàn thư Tập 1, NXB Văn hóa – thông tin Hà Nội, năm 2000, trang 305

[11] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 43

[12] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 43

[13] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 45

[14] Nguyễn Tài Thư chủ biên, lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđđ, trang 129.

[15] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 45

[16] Trần Trọng Dương, Khuông Việt Thiền Sư hay phức thể dung hội Nho – Phật, in trong sách Văn học, Phật giáo với 1000  năm Thăng Long – Hà Nội (Học viện Phật giáo TP. HCM và hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP. HCM, NXB VHTT, 2010).

[17] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 44

[18] Thích Thanh Nhiễu, https://www.vncphathoc.com

[19] Thích Thanh Nhiễu, https://www.vnc.phathoc.com

[20] Thiền Uyển Tập Anh, Sđđ trang 35

[21] Thích Thanh Nhiễu, https://www.vncphathoc.com

[22]  Thiền Uyển Tập Anh, Sđđ trang 47

[23] Viện nghiên cứu Hán Nôm, văn bia mã số 066944 thôn Thụy Hưng, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên

[24] Bùi Duy  Tân, tuyển tập, NXB Giáo dục, Hà Nội 2007, trang 68

[25] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 45

[26] Thích Thanh Từ, https://www.thienviendaidang.net

[27] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, Cao Huy Giu phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, NXB, KHXH, Hà Nội, 1967.

[28] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 225

[29] Thích Thanh Từ, Tham đồ hiển quyết và thi tụng các  thiền sư đời Lý giảng giải, Thiền Viện  Thường Chiếu

[30] Thiền Uyển Tập Anh. Sđđ, trang 47

[31] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học năm 2010 trang 144.

[32] Viện hàn lâm khoa học xã hội, tạp chí triết học, số 2 (165) tháng 2, 2005.