Luận án Tốt nghiệp: Tìm hiểu tính giáo dục qua một số thí dụ trong Kinh Pháp Hoa (Ni sinh Thích Nữ Tịnh Đạt)

13/ 04/ 2018 08:07:37

A . DẪN NHẬP

 1. Lý do và mục đích chọn đề tài

Diệu Pháp Liên Hoa là một trong những bộ kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi, gồm 7 quyển chia làm 28 phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, ý nghĩa sâu xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu của chư Phật và Bồ Tát. Toàn bộ những lời dạy trong kinh nhằm chỉ cho chúng sinh thấy được và sống bằng Tri Kiến Phật của chính mình tức là thấy được chân tâm Phật tính sẵn có của  chúng sinh, tin tưởng vào khả năng của mình có khả năng mà tiến tu đến Phật quả.

Đức Phật đã dùng một loạt các thí dụ và  những câu chuyện cụ thể để giáo hóa khiến cho chúng sinh đễ bề thâm nhập giáo lý Tối Thượng thừa. Khi nói tới giáo lý trong kinh Pháp Hoa tức là nói tới nguồn chân lý tột cùng, bởi thời Pháp Hoa là thời   “Nhật Một Hoàn Chiếu” ví như mặt trời sắp lặn, chiếu những tia nắng cuối cùng lên đỉnh núi. Cũng vậy Kinh Pháp Hoa Đức Phật với mục đích thuyết cho hành giả có tín căn đại thừa đã hiểu nghĩa lý thâm diệu ấy.

Tôn chỉ của kinh Pháp Hoa đã nêu lên cái bản hoài của mười phương chư Phật là “ Khai thị chúng sinh, ngộ, nhập Phật tri kiến”, đây cũng chính là cương lĩnh chính yếu của toàn bộ kinh. Tri kiến được thể hiện trong bộ kinh này chính là cái bản thể hằng hữu, là bản lai diện mục, là Phật tính sẵn có nơi mỗi chúng sinh mà ở Thánh không tăng, ở phàm không giảm. Đồng thời Đức Phật cũng đề cập đến khả năng thành Phật của tất cả chúng sinh.

Đặc biệt giáo dục là vấn đề luôn cấp thiết đối với xã hội. Bên cạnh đời sống vật chất, con người còn có đời sống tinh thần được biểu hiện qua nhân cách sống của mỗi người. Cái nhân cách ấy rất cần được uốn nắn để cho nó hoàn thiện. Để làm được điều đó chúng ta  phải có phương pháp giáo dục phù hợp. Xã hội ngày càng văn minh tân tiến thì việc giáo dục càng phải được chú trọng nhiều hơn. Để điều chỉnh và làm cho xã hội được tốt và cân bằng thì không có cách nào khác hơn là phải giáo dục nhân cách con người.

Đạo Phật ra đời với mục đích giáo dục con người nhận ra được nguồn gốc của khổ đau luân hồi và xa lìa tham sân siđạt đến chỗ an vui hạnh phúc chân thật. Toàn bộ những lời dạy trong kinh Pháp Hoa nhằm chỉ cho chúng sinh thấy được Tri Kiến Phật của mình. Người nghe dù căn cơ có chậm lụt đến đâu, nhưng thông qua những thí dụ ấy có thể phần nào hiểu được thâm ý của kinh.

Với bộ kinh Đại thừa được phổ biến rộng khắp giúp nhiều người hiểu biết hơn về bộ kinh này, bộ kinh bao gồm nhiều phẩm và nghĩa lý lại cao thâm nên không phải ai cũng có thể đọc trọn bộ huống chi là hiểu hết ý nghĩa của kinh. Một sự thú vị nữa có thể tìm thấy trong kinh văn là những hình ảnh ẩn dụ mà đức Phật sử dụng trong khi thuyết pháp như Tam Chu, Cửu Dụ (Khai Tam quy nhất), dẫn Quyền vào Thật để khai thị. Đó là  khiến tất cả chúng sinh biết được Bản Lai Diện Mục, gọi là Tri Kiến Phật để ngộ nhập. Đây là một trong những phương pháp quen thuộc nhưng nó rất hấp dẫn thính chúng và đặc biệt là ý nghĩa giáo dục của nó rất cao. Người nghe thông qua cái ví dụ ấy có thể hiểu ngay và hiểu một cách chính xác ý kinh. Xuất phát từ ý nghĩa đó người viết chọn một số thí dụ trong kinh để phân tích và nêu ra thâm ý giáo dục mà đức Phật gửi gắm truyền trao, đó là lý do và mục đích con chọn đề tài này.

2. Phạm vi nghiên cứu

Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh lớn của hệ thống kinh tạng Đại thừa và được mệnh danh là “ Chúng Kinh Chi Vương” tức là Vua trong các kinh. Vì vậy rất khó mà nói hết được giá trị và tác dụng rộng lớn của bộ kinh. Trong phạm vi luận văn ngắn này người viết chỉ chọn một vài thí dụ để trình bày. Qua đó nói lên  phương pháp giáo dục và ý nghĩa thực tiễn của đức Phật được ghi chép trong kinh. Để thực hiện đề tài này, người viết sưu tập những tài liệu có liên quan đến kinh điển Đại thừa, đặc biệt là lấy bộ Kinh Pháp Hoa làm tài liệu chính cho việc nghiên cứu và tìm hiểu.

3. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về tính giáo dục qua một số thí dụ trong kinh Pháp Hoa và  một số ý nghĩa tính thực tiễn trong đời sống tu tập.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đối với đề tài này, người viết trình bày ý tưởng bằng sự tổng hợp, chọn lọc, trích dẫn, phân tích những ý kinh được chư Tôn Đức giảng giải thông qua học trực tiếp và từ kinh sách. Trên cơ sở đó, bài viết sẽ được thêm những phần kiến giải tự thân nhằm giúp cho độc giả phần nào tiếp nhận dễ dàng hơn và có cái nhìn mới về Kinh Pháp Hoa.

5. Tính cấp thiết của đề tài

Cuộc sống nhân sinh khi nào còn khổ đau thì nhu cầu về học Phật khi ấy cần được diễn giải để phổ biến. Bộ Kinh Pháp Hoa ngày càng được công chúng ở mọi tầng lớp nghiên cứu và tu tập nên có thêm những tài liệu tham khảo sẽ rất quan trọngnếu không muốn nói là cần thiết, đó chính là tính thiết thực của đề tài.

Tuy nhiên kiến thức còn hạn hẹp, sự tu học còn non nớt con không sao tránh khỏi những lỗi thiếu sót khi trình bày ý kinh. Đề tài này chỉ là kết quả bước đầu của quá trình nghiên cứu nên cũng không thể tránh khỏi những điều thiếu sót. Nhưng với lòng thương tưởng của quý Ngài, con rất mong quý Ngài hoan hỷ và chỉ dạy nhiều hơn để con có cơ hội hoàn chỉnh bài viết cũng như hoàn chỉnh  chính mình trên lộ trình tu học và tìm cầu sự giác ngộ, giải thoát.

6. Kết cấu luận án

Ngoài phần Dẫn nhậpKết luận, phần Nội dung (gồm có 3 chương và 11 mục nhỏ)

Chương 1: Sơ Lược Kinh Pháp Hoa (gồm 4 mục)

Chương 2: Tính giáo dục qua một số thí dụ trong Kinh Pháp Hoa  gồm 2 mục (Tổng dụ và Biệt Dụ), trong đó mục Biệt dụ gồm 3 phẩm, mỗi phẩm có 2 mục nhỏ.

Chương 3: Tính thiết thực của các thí dụ trong Kinh Pháp Hoa (gồm 3 mục).

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC KINH PHÁP HOA 

1.1. Quá trình phiên dịch và truyền thừa kinh pháp hoa  

Theo “Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận” của Kimura- Taiken cũng như một số tài liệu khác thì đại thừa có mặt tai Ấn Độ vào thế kỷ I trước Tây lịch,  cho đến thế kỷ II sau Tây lịch thì đại thừa phát triển mạnh mẽ, Kinh Pháp Hoa xuất hiện vào thời điểm này. Các bản dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa từ Sankrit sang Hán ngữ được tiến hành từ rất sớm và có nhiều bản dịch khác nhau. Người bắt đầu phiên dịch kinh này là cư sĩ Chi Khiêm nước Ngô thời Tam Quốc (225-253), dịch riêng phẩm Thí Dụ, gọi là “ Phật Dĩ Tam Xa Hoán Kinh” 1 quyển. Sau đó các nhà dịch thuật đã tiếp tục dịch thành sáu bản khác nhau. Sáu bản đó là:

  • Pháp Hoa TamMuội Kinh, 6 quyển Ngài Chi Cương Lương (Kalasivi) năm Ngũ Phượng thứ 2 ( năm 255) đời Tôn Lượng
  • Tát Vân Đà Lị Kinh, 6 quyển, Ngài Pháp Hộ (Dharmaraksa) dịch lần đầu ở năm Tần Thỉ (năm 286) đời Tây Tấn.
  • Chính Pháp Hoa Kinh, 10 quyển, Ngài Pháp Hộ dịch lần cuối ở năm thứ 7 niên hiệu Thái Khang ( năm 286) đời Tây Tấn.
  • Phương Đẳng Pháp Hoa Kinh, 5 quyển, Ngài Chi Đạo Căn dịch, năm đầu Hàm Khang ( năm 335) đời Đông Tấn.
  • Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển (sau đổi thành 8 quyển) Ngài Cưu Ma La Thập dịch năm Hoằng Thỉ thứ 8 (năm 406) đời Diêu Tần.
  • Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, Ngài Xa-La-Hốt-Đa và Đạt-Ma-Cấp-Đa cùng dịch ở năm đầu Nhân Thọ (năm 601) đời Tùy

Hiện nay có nhiều bản Phạn ngữ Kinh Pháp Hoa được tìm thấy từ Tây Tạng, Neepan, Putan…vv Đại tạng Hán ngữ nay chỉ còn 3 bản trong đó thì bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7 cuốn, 28 phẩm do Ngài Cưu-Ma-La-Thập dịch được lưu hành và diễn giải nhiều nhất. Ngoài ra bản dịch Hán ngữ ra còn có các bản dịch khác rất phong phú như của Mông Cổ, Mãn Châu, Nhật Bản, Việt Nam….

Sự nghiệp nghiên cứu và truyền bá kinh Pháp Hoa cũng rất sâu rộng. trước tiên là tại Ấn Độ, sau khi Phật nhập diệt khoảng 800 năm có ngài Long Thọ trước tác bộ “ Đại Trí Độ Luận” để chú thích “ Đại Phẩm Bát Nhã” trong đó có nhiều dẫn chứng kinh Pháp Hoa. Ngoài ra ngài còn trước tác bộ “ Pháp Hoa Thích Luận”. Sau khi Ngài nhập diệt khoảng  900 năm, có ngài Thế Thân (vasubhandu), một Luận sư nổi tiếng đã trước tác rất nhiều tác phẩm, trong đó lược dịch “ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá” Và “Pháp Hoa Luận” 2 quyển.

Ngài Trí Giả Đại Sư ở Trung Hoa có tác phẩm nổi tiếng như : Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán… sau này ngài đã căn cứ vào ba bộ kinh này thành lập tông phái Thiên Thai, còn truyền thừa đến ngày nay.

Theo Lịch Đại Tam Bảo Ký, bộ Pháp Hoa Tam Muội đã được ngài Chi Cương Lương cùng với các học giả Việt Nam dịch ra chữ Hán tại đất Giao Châu vào năm 260 và trước đó ngài Khương Tăng Hội đã trích dịch phẩm thí dụ với tên là “Phật Thuyết Tam Xa Dụ Kinh”

Ở Việt Nam qua quá trình phiên dịch của các thời kỳ ( Hán, Nôm, Quốc ngữ) cũng có các bản kinh như:

+ Pháp Hoa Tông Chỉ Đệ Thường bằng chữ Hán của Tỳ kheo Thanh Đàm và Thiền sư Giác Đạo Minh Chánh.

+ Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh của Pháp Liên Đà giải âm bản dịch của Ngài Cưu-Ma-La-Thập.

+ Kinh Pháp Hoa của Hoà thượng Trí Tịnh dịch.

+ Pháp Hoa Huyền Nghĩa của đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền dịch

+ Lược Giải Kinh Pháp Hoa của Hoà thượng Thanh Từ.

+ Lược Giảng Kinh Pháp Hoa của Hoà thượng Thiện Siêu.

+ Đại Ý Kinh Pháp Hoa của Hoà thượng Thanh Kiểm.

+ Lược Giải Kinh Pháp Hoa của Hoà thượng Trí Quảng.

+ Tư Tưởng Kinh Pháp Hoa của Hoà thượng Chơn Thiện…vv

Từ đó cho thấy sự phổ biến của kinh này rất rộng rải và là bộ kinh được giảng giải cũng như trì tụng nhiều nhất.

1.2. Giải thích đề kinh  

Kệ rằng:

“ Đề kinh ngũ tựa nghĩa u huyền

Diệu Pháp Liên Hoa thật huệ viên

Độc giác thanh văn nan chất lượng

Bản lai thanh tịnh bặt trần duyên.

Tùy thời ngộ nhập chân tri kiến

Hiển xứ khai phu thật quả nhiên

Pháp dụ song bày minh đại sự

Tâm hoa sáng lạng chiếu vô biên”

Đề kinh tiếng phạn là Saddharma Pundrika Sttra. Từ “sad” ngài Pháp Hộ dịch là Chính, Ngài La Thập dịch là Diệu, “Dharma” là Pháp; “Pundrika” là Hoa Sen trắng; “Suttra” là Kinh. Dịch là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

  1. Chữ Saddharma: Cũng dịch là Chính pháp hay Diệu Pháp. Diệu Pháp cónghĩa là huyền diệu, mầu nhiệm của Nhất Phật Thừa. Hoa sen trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, thanh tịnh không ô nhiễm. Vậy Diệu Pháp là thật tướng không tách khỏi cuộc đời ô trược. Trong cõi đời uế trược này, chúng sinh vẫn có thể vươn lên giải thoát hoàn toàn như hoa sen mọc trong bùn nhưng vẫn vươn lên khỏi bùn và cho hương sắc tinh khiết thơm dịu mà không loài hoa nào có được.

Chữ “Diệu” ở đây có ba nghĩa:

+Diệu Về Tất Cả Pháp

Khi  kinh Diệu Pháp Liên Hoa khai triển viên dung lớn nhỏ thì bao nhiêu cái xấu đều thành tốt. Phàm có nói điều gì đều là Diệu Pháp. Chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà thị hiện ra nơi đời, đó là “Khai Thị Chúng Sinh, Ngộ, Nhập, Phật Tri Kiến”. Giáo lý của Pháp Hoa tuyệt đãi mà viên dung, lại tuyệt đối mà độc diệu. Nghĩa là huyền diệu hơn hết tất cả tri kiến của hàng nhị thừa phàm phu. Khi hiểu được ý này thì không cần phân ra Tích hay Bản cho đến một câu, một chữ cũng đều là Diệu Pháp cả.

+ Diệu Về Pháp Chứng Và Giáo Chứng

Pháp chứng tức là trí tuệ của Phật rất sâu xa, mầu nhiệm, chỉ có Phật với Phật mới hiểu hết được, không phải là chỗ suy lường của Bồ tát và hàng nhị thừa. Giáo chứng tức là pháp mà chư Phật thành tựu thì sâu xa chưa từng có, tùy theo căn cơ mà đức Phật có vô số phương tiện, thí dụ để dắt dẫn chúng sinh bỏ mê khai ngộ. Tất cả nó đều xuất phát từ tri kiến Như Lai, bất khả tư nghì, vô úy, vô ngại, điều đó chứng tỏ giáo pháp của chư Phật là vô cùng vi diệu.

+ Diệu Về Cảnh, Hành , Quả

Kinh Pháp Hoa đã chỉ rõ thực tướng mà chư Phật đã tự chứng, từ đó Phật đã dùng phương tiện, thí dụ để thuyết pháp làm rõ ba thừa chỉ có Nhất Phật thừa, lại thụ ký cho các vị Bồ Tát tu hành Phật thừa đều được thành Phật ở đời vị lai đó là Diệu về Cảnh. Dựa vào Diệu về Cảnh khởi ra ý diệu về hành, từ diệu về hành thì quyết định sẽ chứng được diệu quả như những hạnh trong phẩm Thọ Lượng của kinh đã nói vậy.

  1. Chữ Pundrika: Dịch là Hoa Sen trắng, “Liên hoa” là tổng dụ lấy nghĩa là thanh tịnh không nhiễm ô để dụ cho diệu pháp. Tất cả sự vật thế gian, không có gì có thể ví dụ cho tâm nên lấy hoa sen làm thí dụ, vì nó sinh ra trong bùn mà không bị bùn nước làm cho nhiễm ô “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, như tâm ở trong trần lao mà không bị trần lao làm mê hoặc.

1.3. Bố cục Kinh Pháp Hoa

Kinh Pháp Hoa được phiên dịch từ chữ Phạn (Sanskrit) sang chữ Hán có nhiều bản dịch khác nhau, nhưng duy chỉ có bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch ở năm Hoằng Thỉ thứ 8 (năm 406) đời Diêu Tần, gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là được phổ cập nhất. Đặc biệt là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều được truyền trì, đọc tụng.

Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư phân 28 phẩm của kinh ra hai môn, đó là Tích môn và Bản môn, trong đó 14 phẩm đầu thuộc Tích môn Pháp Hoa, 14 phẩm cuối thuộc Bản môn Pháp Hoa. Bản môn là nói về “ Cổ Phật” hay Phật tính thường trú, không sinh diệt. Thế Tôn đã thành Phật từ vi trần kiếp xa xưa, không phải mới ra đời và thành đạo trong hiện kiếp. Đây là nguồn giáo lý đặc biệt của Pháp Hoa giải thích lý do tại sao có thể thành Phật.

Tích môn là nói về “Tân Phật” nghĩa là Phật mới thành, mà Phật mới thành là ứng hóa thân của Cổ Phật thị hiện. Đây là phần hóa độ của đức Phật Thích Ca biểu hiện qua lịch sử tu tập, thành đạo và giáo hóa. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa chia ra làm hai Môn: Tích và Bản, nhưng đó đều là những pháp môn để chúng sinh ngộ Tri Kiến Phật và đều có những bản sắc riêng.

  • Tích môn nói về chân lý “ Nhị thừa thành Phật”. Bản môn nói về chân lý “cửu viễn thành Phật”.
  • Tích môn bàn về ý tưởng “ Y tín thành Phật”. Bản môn nói về Lý tưởng “ trì kinh thành Phật”.

Theo Tông Thiên Thai chia kinh này gồm hai phần là Tích mônBản môn.

Phần Tích môn: Đây là phần hoá độ của Phật Thích Ca biểu hiện qua lịch sử: Tu tập, thành đạo và giáo hoá, gồm 14 phẩm đầu.

Phẩm tựa giới thiệu tổng quát về sự tướng của pháp giới và về Tri Kiến Phật

Phẩm phương tiện thứ 2 gọi là “Pháp Thuyết Chu”, cũng chỉ bày Tri Kiến Phật, nhưng chỉ có bậc đệ tử thượng trí như Tôn giả Xá-Lợi- Phất mới lãnh hội được.

Phẩm 3-6 gọi là “Dụ Thuyết Chu”, ở đây Thế Tôn phải dùng nhân duyên thí dụ để chỉ bày Tri Kiến Phật, nhờ thế, các bậc căn trí sau Ngài Xá-Lợi-Phất một bậc mới lãnh hội được.

Phẩm 7-9 gọi là “Nhân Duyên Thuyết Chu”, tại đây Thế Tôn mở tâm cho các đệ tử căn trí thấp hơn thấy rõ nhân tu hành quá khứ của tự thân để phát khởi tâm đại thừa, hầu thấy rõ Phật Tri Kiến. Phần này dạy các bậc Thanh Văn hữu học.

Phẩm 10-14 là phần trình bày bổ sung các phần trên, nói lên khả năng thành Phật của mọi chúng sinh, nói lên Phật tính và điều kiện để hiểu và thuyết giảng Pháp Hoa.

Phần Bản môn: Phẩm 15-16 là phần chính của Bản môn, nói lên Phật tính thường có, không sinh diệt. Thế Tôn vốn đã thành Phật từ vô lượng kiếp ở Ta Bà, không phải mới ra đời và thành đạo trong hiện kiếp. Đây là phần giáo lý đặc biệt của Pháp Hoa giải thích lý do tại sao có thể thành Phật.

Phẩm 17-22 tiếp tục giới thiệu tư tưởng của Bản môn, vừa khích lệ các đệ tử học hiểu, tu tập và phổ biến kinh.

Phẩm 23-28 trình bày con đường đi vào Tri Kiến Phật của Bồ tát. (Nhập tri kiến Phật).

Trên đây là bố cục của kinh Pháp Hoa. Có thể xem 28 phẩm của kinh là 28 kiệt tác văn học. Nếu chúngta ghi nhớ được đại thể của kinh, nắm được cách thức phân khoa này sẽ giúp cho chúng ta giải được cương lĩnh và yếu chỉ của Pháp Hoa.

1.4. Khái quát tư tưởng Kinh Pháp Hoa

Như trên đã nói, phẩm Phương Tiện thuộc phần chính tông của Tích môn, Phần này chú trọng hai chữ “Khai hiển”.

Khai hiển: Khai quyền chấp của Tam thừa, hiển nghĩa chân thật của Nhất thừa, gọi là Khai Tam Hiển Nhất”,“Khai quyền Hiển Thật hoặc Khai – Hiển đều cùng một ý nghĩa. Tùy theo căn cơ mà Đức Phật đưa ra những giáo lý cho phù hợp. Vì hàng Thanh Văn thuyết Pháp Tứ Đế, Vì hàng Duyên Giác thuyết pháp Mười Hai Nhân Duyên, Vì hàng Bồ Tát thuyết Lục Độ Vạn Hạnh, như vị lương y, tùy bệnh cho thuốc, nên gọi là Pháp hay Quyền thừa. “Quyền” có nghĩa là chỉ tạm dùng rồi bỏ đi. Nhất thừa:“Nhất” có nghĩa là tuyệt đối nhất. Phương tiện có ba thừa ứng với từng căn cơ, nhưng bản thể là bình đẳng như nhau, Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”. Đó gọi là Nhất thừa giáo, Pháp này bất biến, tuyệt đối chân thật, nên gọi là “Thật giáo”. Đức Phật nói pháp Tam thừa ở trước thời Pháp Hoa nên Tam thừa là Quyền, Nhất thừa là thật, đó gọi là: “Khai Tam hiển nhất, khai quyền hiển thật”. Phần chính yếu tư tưởng của kinh Pháp Hoa được tóm tắt trong bốn chữ: “Chư pháp thật tướng”

Trong kinh nói: Duy Phật dữ Phật, nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng, sở vị chư Pháp, Như thị Tướng, như thị Tính, như thị Thể, như thị Lực, như thị Tác, như thị Nhân, như thị duyên, Như thị Quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng’’[1].

Chư Pháp thực tướng là tư tưởng căn bản của Tích môn Pháp Hoa, cũng là tướng chân thật của các pháp. Tức chư pháp là thực tướng, thực tướng tức chư pháp. Hình thức cứu cánh tồn tại của sự tướng, Sự tướng ở đây nó bao hàm nhân gian và vạn tượng trong vũ trụ, sự sự, vật vật. Nếu nhìn trên sự tướng, chúng thiên sai vạn biệt, nhưng về mặt Lý tính chúng đều dung thông, bình đẳng đó là thực tướng của các phápNhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải”.

Vì vậy, dù cho vũ trụ sai biệt vô hạn, nhưng không hề hỗn độn, mà hoạt động theo thể thống nhất của pháp. Đó là “Hiện tượng tức thực tại”, được kinh Pháp Hoa triển khai trong học thuyết thập Như Thị. Nghĩa là tất cả các pháp đều có chung một chữ Như Thị, nghĩa là nó như thế nào thì cứ như thế ấy, chân thật như thường. Bản thể của các pháp là thường trụ bất biến, nên chữ “Như” là nghĩa bất biến vậy. Mỗi sự vật tập thành mỗi thế giới khảo sát theo tính duyên sinh, khởi đầu từ thể. Thể tất nhiên hàm chứa một tính chất gì đó, tính chất này, thể hiện ra tướng bên ngoài, muốn hiện ra phải có một tác dụng. Đó là xét về khía cạnh của một sự vật. Trong thế giới, những sự vật như thế rất nhiều, chúng tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau, khởi lên mọi hiện tượng, đó gọi là nhân, nhân nương vào điều kiện (duyên) tốt xấu mà sinh ra quả, quả có phân biệt tốt, xấu. Như vậy, sự vật hiện tượng trong thế giới  đều có mối tương quan duyên khởi, chúng vừa làm nhân, làm quả cho nhau, cùng nhau sinh khởi và tồn tại, như thế gọi là “Chư pháp thật tướng”.

Đó cũng là nguyên lý của vũ trụ vạn hữu, nếu xa lìa thế gian không có Phật, đó cũng là biểu thị nhân sinh quan của kinh Pháp Hoa. Điều đó được tóm tắt trong bài kệ:

“Thị pháp trụ pháp vị

Thế gian tướng thường trú

Ư đạo  tràng tri dĩ

Đạo sư phương tiện thuyết”.

Từ cơ sở “Pháp trụ pháp vị”, Pháp Hoa đề ra những phương tiện qua một số thí dụ đi vào sự thấy biết của Phật hết sức đa dạng và đặc biệt, đến mức cái gì cũng có thể trở thành phương tiện của Pháp Hoa.

Tóm lại, tư tưởng cốt tủy của Kinh Pháp Hoa là muốn nêu lên hoài bão của Phật là “ Khai thị chúng sinh, ngộ, nhập, Phật Tri Kiến” mà đặc biệt là ở phần ngộ nhập Tri Kiến Phật, một phương pháp nắm bắt thực tướng hay giác tính sẵn có nơi mỗi người. Phẩm đầu do Bồ Tát Văn Thù giải nghi cho Bồ Tát Di Lặc về việc Phóng quang của Đức Phật. Đó là tượng trưng cho Căn Bản Trí đánh thức phát tâm Bồ Đề. Phẩm cuối, từ Phẩm Hiện Bảo Tháp đến phẩm hai mươi hai, Phật chỉ rõ giác tính hằng soi sáng mà không hình tướng nên khó chỉ, khó nhận, giống như không khí tối cần thiết cho sự sống của sinh vật. Vì vậy, Phật mượn những hình ảnh biểu trưng chỉ cho chúng ta ngầm nhận ra Tri Kiến Phật, nên phẩm Hiện Bảo Tháp, phẩm Đề Bà Đạt Đa… nêu ra những hình ảnh biểu trưng cho Tri Kiến Phật sẵn có muôn thuở không mất nơi mỗi người, khi người tin nhận thì nó hiện tiền. Sau khi Phật chỉ rõ sự thấy biết, ngài mới khai mở qua những thí dụ ở Phẩm Tựa, Thí dụ, Tín Giải, Thọ Ký… thì Phẩm Hiện Bảo Tháp là bắt đầu thị ngộ Tri Kiến Phật (Phật Tính, hay Tính Giác). Phẩm cuối Bồ tát Phổ Hiền phát nguyện bảo hộ người trì kinh sau này. Đây là tượng trưng cho Sai Biệt trí làm lợi ích chúng sinh. Thực ra toàn bộ kinh đều chỉ nhằm mục đích chỉ cho mọi người nhận ra nơi thân ngũ uẩn này sẵn có tri kiến Phật chứ không phải nơi nào khác.

CHƯƠNG 2: TÍNH GIÁO DỤC QUA MỘT SỐ THÍ DỤ TRONG KINH PHÁP HOA

  1. Tổng Dụ Liên Hoa

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu pháp là chân lý, Diệu Pháp ám chỉ cho Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có ở tất cả chúng sinh mà mọi người không hay, không biết. Tri Kiến ấy không phải lúc thành Phật nó mới sinh ra, khi còn là chúng sinh thì nó tiềm tàng. Tri kiến ấy chính  là Chân Tâm thường trụ, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, đó là “Bản Nguyên Giác Tạng” vốn thường hằng nơi mỗi chúng sinh. Hoa Sen dụ cho Phật Tính hay Tri Kiến Phật, đó là loài hoa vô cùng cao quý, nó mọc lên từ bùn, nhưng không bị bùn làm cho nhơ bẩn. Hoa Sen dù có mọc trước, mọc sau, dù ngoi lên trên mặt nước hay còn đang ở dưới bùn, nhưng khi có cơ hội mọc lên gặp ánh sáng mặt trời, tất cả đều nở ra, tỏa hương thơm và có đủ cánh, nhụy, gương, hạt như nhau.

Cũng vậy, tất cả chúng sinh có hạng căn cơ thấp, có kẻ căn cơ vừa, có hạng căn cơ cao, nhưng nếu được gặp ánh sáng của giáo lý Đức Phật cũng sẽ được giải thoát và giác ngộ. Cho nên, Phật đã mượn hình ảnh Hoa Sen để ví cho Diệu Pháp của Ngài cho Tri Kiến Phật. Đó là cái thấy biết như thật về các pháp là thấy biết Phật, còn thấy biết sai trái là là cái thấy biết chúng sinh. Đức Phật đã ví dụ bùn đó là phiền não của chúng sinh, phiền não đó làm cho cái thấy biết Phật của chúng sinh bị khuất lấp, không hiện, không mọc lên được, cũng như bùn khuất lấp hoa sen. Nhưng khi bùn được vạch ra, hoa tất sẽ mọc. Hoa mọc lên từ trong bùn, cũng như cái thấy biết Phật hiện lên từ trong tâm phiền não của chúng sinh.

Mượn hình ảnh Hoa Sen, Đức Phật chỉ bày cho chúng sinh thấy, ngay nơi thân phàm phu này, Tri Kiến Phật ở nơi thân vô thường mà không bị vô thường, dụ Hoa Sen trong bùn mà “chẳng hôi tanh mùi bùn”, không vì bùn nhơ mà phai nhạt hương sắc, Nên Đức Phật thuyết: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.

Lại nữa, Hoa Sen không bị ong bướm bu đậu và không bị phụ nữ dùng để trang điểm. Cũng vậy, Tri Kiến Phật là pháp vi diệu, nhiệm mầu không bị bất cứ pháp thế gian nào làm cho ô nhiễm.

Sở dĩ gọi Tri Kiến Phật là Diệu Pháp, vì Tri Kiến Phật đầy đủ muôn dụng, vượt ngoài tầm suy tư hiểu biết của chúng sinh nên gọi là Diệu, siêu việt trên tất cả pháp đối đãi và bất kỳ pháp nào ở thế gian cũng không thể so sánh được.

  1. Biệt Dụ

Kinh Pháp Hoa mở đầu bằng một thời thiền tọa quán chiếu về bản chất của giáo pháp. Kết quả thời thiền tọa này được trình bày bằng những câu chuyện, những thí dụ, được gọi chung là “Tam Chu Cửu Dụ” và những luận giải kèm theo.

* Tam Chu: là Pháp thuyết chu, Dụ thuyết chu và Nhân duyên chu, là 3 vòng tương tự như Phật nói Tứ Đế dành cho ba đối tượng

Trước hết, Phật vì hàng thượng căn mà nói thẳng giáo Pháp gọi là “Pháp Thuyết chu”, nghĩa là nói thẳng giáo pháp chứ không dùng dụ, không nói nhân duyên. Phần này Phật nói Pháp “Khai Tam hiển Nhất”, nói thẳng Tri Kiến để bậc thượng căn, thượng trí hiểu, gồm một nửa Phẩm Phương Tiện thứ 2 và Phẩm Thí Dụ thứ 3. Pháp thuyết chu là phần Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy: Đây là Khổ đế (là cái quả mà chúng sinh đang chịu), đây là Tập đế (là những cái nhân phiền não, tham, sân, si gây nên khổ), muốn hết khổ, đạt an vui Niết-bàn thì phải dứt cái nhân. Đó chính là Diệt đế (là an vui, Niết-bàn). Muốn dứt được cái nhân đó thì phải có đường lối, phương pháp, không phải chỉ lý luận, nói suông mà được. Đường lối đó chính là Bát Chánh Đạo hay Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó là Đạo đế. Như vậy, tu đạo đế là dứt cái nhân đưa đến khổ, không có nhân thì không có quả khổ, thật sự chứng Niết-bàn, an vui là Diệt đế.

Thứ nữa, Phật vì hàng trung căn mà nói giáo pháp phải nhờ thí dụ, gọi là “DụThuyết chu”. Ở đây Đức Phật phải dùng thí dụ để chỉ bày Tri Kiến Phật, gồm Phẩm Tín Giải thứ 4, Phẩm Dược Thảo Dụ thứ 5, Phẩm Thọ Ký thứ 6. Nhờ thế, các bậc trung căn sau Ngài Xá Lợi Phất mới lĩnh hội được. Khi đã chỉ rõ cho chúng sinh thấy rồi thì Phật khuyên tu, tức là Khuyến chuyển. Phật nói: Đây là khổ các ông cần phải biết; đây là Tập (tức là cái nhân đưa đến khổ) các ông cần phải đoạn dứt; đây là Diệt (dứt khổ) các ông cần phải chứng; đây là Đạo (là con đường để dứt khổ) các ông cần phải tu. Các ông không thể chỉ hiểu biết suông mà cần phải thực hành, phải tu để tiến thẳng vào lẽ thật“.

Nghe thí dụ vẫn chưa hiểu, Phật lại vì hàng hạ căn mà nói giáo pháp Ngài kể lạinhững nhân duyên xa xưa, gọi là “Nhân Duyên Chu” nghĩa là dùng nhân duyên xưa để đem ra nói. Phật xác định rõ những điều đó là những điều Ngài đã thực chứng, đã trải qua, rồi chỉ dạy lại cho chúng sinh, không phải Ngài nghe ai nói hay Ngài suy tư, phỏng đoán. Ngài nói như vậy để dứt lòng nghi hoặc trong chúng sinh, cho chúng sinh biết Ngài đã trải qua rồi, đã đạt rồi. Ngài nói: “Khổ Như Lai đã biết, Tập Như Lai đã đoạn, Diệt Như Lai đã chứng, Đạo Như Lai đã tu“. Tức là những điều đó là những điều Như Lai đã thực hành qua, đã thực chứng rõ ràng mới chỉ dạy cho các hàng đệ tử. Các hàng đệ tử của Phật thì cũng phải học theo cái gương đó, phải thực hành, phải chứng nghiệm, phải trải qua chứ không thể chỉ hiểu suông mà cho là đủ.

Hạng trung căn ngộ lý, nhưng người hạ căn không hiểu, nên Phật kể lại nhân duyên quá khứ của các vị đó để họ thấy rằng: Họ đã từng có nhân duyên gặp Phật. Ngày trước họ đã  gặp Pháp Hoa nhưng do không tu nên bây giờ họ chưa đạt được Phật tuệ, gồm các Phẩm Hóa Thành Dụ thứ 7, Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký thứ 8, phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký thứ 9, phẩm Pháp Sư thứ 10. Do đó, đại chúng trong một pháp hội chứng nhập được Diệu Đế của chư pháp thật tướng, nên gọi là “Tam Chu thuyết pháp”. Như vậy, giáo lý của đạo Phật chỉ có một thừa duy nhất là Phật thừa.

Thập phương Phật độ trung

Duy hữu nhất thừa Pháp

Vô nhị diệc vô tam

Trừ Phật phương tiện thuyết[2].

Mỗi chu thuyết pháp của Đức Phật đều bao gồm đầy đủ bốn phần : Đức Phật thuyết pháp gọi là chính thuyết; kiến giải của người nghe gọi là lĩnh giải; lời chấp nhận của Đức Phật về sự lĩnh giải gọi là thuận thành và cuối cùng là thụ ký. Bằng ba cách, Đức Phật đã chuyển hóa ba hạng căn cơ thượng, trung, hạ và đưa tất cả vào Phật tuệ. Đức Phật dạy: “Xá Lợi Phất, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phật ở mười phương, các Đức Phật Thế Tôn làm nhiều lợi ích cho chúng sinh vì Pháp là một Phật thừa, các chúng sinh ấy theo Phật, nghe pháp rốt ráo đề chứng đượcNhất thiết chủng tríXá Lợi Phất, nay ta lại như thế, tùy theo bản tính kia dùng các món nhân duyên, thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp. Xá Lợi Phất, như thế đều vì để chứng được một Phật thừa, Nhất thiết chủng trí ”.

2.1. Thí dụ về Chàng Cùng Tử  

2.1.1. Ý nghĩa thí dụ Chàng Cùng Tử  

Thí dụ về chàng cùng tử, đây là ẩn dụ về người con cùng khổ, hán văn gọi anh chàng bỏ cha chốn đi gọi là cùng tử, nghĩa là đứa con bần cùng.

Ông E.Burnouf dịch là “lefils prodigue” tức là “đứa con hoang”. Chàng cùng tử bỏ cha ra đi, nghĩa là trước kia cha con cùng ở một chỗ, chỗ đó gọi là  “Phật độ Viên Giác thanh tịnh

Không riêng gì các Trưởng Lão Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên mà tất cả chúng ta và Phật đều cùng nguyên quán, đều cùng ở một chỗ, đó gọi là Quê hương, Bản Lai Diện Mục, là nơi hoàn toàn sáng suốt và thanh tịnh. Nhưng khi vô minh bất giác nổi lên không nhận được chân tâm thường trú sáng suốt thanh tịnh ấy, thì chúng ta bỏ nhà ra đi, làm đứa con hoang, làm chàng Cùng Tử, không có trí tuệ, phải chịu khổ sở và phiền não luân hồi.Kinh Lăng Nghiêm , Đức Phật dạy: “Nhứt thiết chúng sinh tòng vô thủy lai, giai do bất tri thường trú chân tâm tính tịnh minh thể, nhận chư vọng tưởng, thử tưởng bất chân, cố hữu lưu chuyển”[3].

Sau khi nghe Thế Tôn xác nhận Tôn giả Xá-Lợi-Phất sẽ thành Phật, các Tôn giả trí tuệ như Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Tu-Bồ-Đề, Ca-Chiên-Diên, vui mừng hớn hở phát khởi lòng tin kiên cố về Nhất thừa và trình bày với đức Thế Tôn sự tin hiểu Phật thừa của mình qua ví dụ về Gã Cùng Tử. Có người con, lúc nhỏ bé đã bỏ cha trốn đi qua mấy mươi năm phiêu bạt nay đây mai đó, nghèo khổ đói khát. Trong khi đó, người cha giàu có, tiền của đầy kho, tôi tớ đầy nhà Ông thường mong được gặp lại con để giao phó gia tài sự nghiệp. Một hôm, đứa con lạc loài tình cờ đến trước nhà cha mà không hay biết, nhìn thấy Trưởng giả quá sang trọng như thể vua chúa, anh ta hoảng sợ liền bỏ chạy trốn. Nhưng Trưởng giả đã nhận ra Gã Cùng Tử ấy là con mình nên sai hai người rượt bắt. Gã Cùng Tử bị bắt, sợ quá ngã xuống ngất xỉu. Ông Trưởng giả thấy vậy ra lệnh lấy nước rưới trên mặt cho nó tỉnh rồi thả đi. Sau đó, ông sai hai người tiều tuỵ, mắt chột chân què đến chỗ gã ở để rủ làm thuê hốt phân. Anh ta nghe trả giá gấp đôi, liền nhận hốt phân ở phía sau nhà ông Trưởng giả.

Nhìn thấy con cực khổ, ông thương xót vô cùng, bèn thay quần áo sang trọng, mặc đồ thô rách, tay cầm đồ hốt phân để đến gần với con. Một hôm, ông bảo cùng tử: Con nên tiếp tục làm việc ở đây, ta trả thêm tiền, có cần thứ gì thì ta sẽ cấp cho và cứ xem ta như là cha. Lòng gã rất vui mừng nhưng vẫn nghĩ mình là hạ tiện làm thuê.

Ít lâu sau, Trưởng giả có bệnh, cho gọi gã đến, giao cho việc quản lý gia tài và được quyền thu xuất đồ đạc trong nhà. Gã lo chu toàn bổn phận, nhưng vẫn tiếp tục ở chỗ cũ. Trải qua một thời gian, ông Trưởng giả biết mình sắp chết, liền họp thân tộc và tuyên bố trước mọi người rằng: Gã Cùng Tử này là con ta, đã bỏ ta đi từ lúc thơ bé. Nay cha con gặp lại, ta giao tất cả gia tài cho nó. Người con nghe vậy quá vui mừng, cho là việc chưa từng có và tự nghĩ: “Ta vốn không mong cầu mà được kho tàng châu báu”.

Kể xong, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Tu-Bồ-Đề, Ca-Chiên-Diên bạch Phật: Ông Trưởng giả ví như đức Như Lai, còn chúng con giống như Gã Cùng Tử thất lạc. Chúng con vì ba món khổ mà ở trong cảnh sinh, già, bệnh, chết, khổ não, sầu lo, chịu các sự mê lầm, cho nên ưa thích giáo pháp Tiểu thừa làm công việc hốt phân tầm thường mà tự cho là thỏa mãn với cái giá trả công tiểu quả.

Đức Như Lai không hề nói chúng con có kho tàng tri kiến, vì biết ý chí chúng con thấp hèn. Chúng con không biết mình là con của Như Lai nên không dám mong hưởng cái gia tài vĩ đại của cha là Phật mà chỉ cam phận với số tiền làm thuê “Nhị thừa”. Đức Như Lai vì thế phải dùng phương tiện thuận theo chúng con mà chỉ dạy, nay kho tàng vô giá không cầu mà tự đến.

Hình ảnh Gã Cùng Tử bỏ cha trốn đi, bị khổ sở, đói khát nói lên tâm trạng các vị Thánh chúng rơi vào trần ai, sống với huyễn vọng, trôi lăn trong ngũ thú, thay hình đổi trạng không biết bao lần. Tuy nhiên, nhờ căn lành đời trước, họ vẫn có chí hướng thượng đi tìm đạo. Bỏ cha trốn đi còn có nghĩa là rời bỏ bản tâm Thanh tịnh viên giác. Vì xa lìa tính giác nên bị nghiệp lực, phiền não lôi kéo làm cho khổ sở xoay vần trong ngũ thú, lục đạo.

Người cha nhớ con là thể hiện tấm lòng từ bi của đức Phật luôn vì chúng sinh chỉ rõ cái Tri Kiến Phật vốn có của chúng. Cái tri kiến ấy chính là gia tài vô giá mà Phật khai thị để chúng sinh ngộ nhập về nó.

Gã Cùng Tử thấy sự uy nguy, sang trọng của cha, sợ hãi chạy trốn nói lên tâm trạng của chư vị Thánh chúng do trụ chấp nơi tiểu quả, cho đó là rốt ráo ở trong cảnh tịch tịnh vô vi, chẳng mong cầu Nhất thừa, nên không dám nghĩ sẽ được quả lớn ấy.

Hai người hầu cận rượt đuổi theo bắt, Gã Cùng Tử ngất xỉu là ý nói nỗi sợ hãi đến ngất xỉu của hàng Thanh Văn, vì ý chí hạ liệt chưa thể tiếp nhận Đại thừa quá cao siêu.

Rưới nước cho gã tỉnh lại là để cho Thanh Văn trở về an trú với cảnh giới thiền định an ổn của họ.

Trưởng giả sai hai người chột mắt, què chân dụ dẫn Gã Cùng Tử về là diễn tả pháp tu của Thanh Văn, Duyên Giác được Phật dạy để tương ứng với tâm trạng và khả năng của hàng Nhị thừa. Đó là pháp Tứ đế và 12 nhân duyên.

Hốt phân nghĩa là tẩy trừ phiền não, tẩy trừ những ô nhiễm đang làm mờ tối trí tuệ của chúng sinh

Ông Trưởng giả thay đồ sang trọng, mặc đồ nhơ để gần Cùng Tử là dụ cho đức Phật phương tiện gần gũi chúng sinh qua sự hoá thân, ứng thân, là thân mang đồ nhơ nhớp và chịu sinh lão bệnh tử như mọi chúng sinh khác.

Trưởng giả khuyến khích con cũng như Phật nhắc nhở chúng sinh tinh tiến tu hành.

Cha giao gia tài cho con cũng như Phật giới thiệu cho chúng sinh thấy mình có Tri Kiến Phật để ngộ được chất Phật có sẵn trong mỗi chúng sinh và sống bằng tri kiến Phật đó. Tức là thành Phật, là nhập Tỳ Lư Tính Hải.

Người cha trong câu chuyện đã không thể nói thẳng sự thật ( thật pháp, Phật trí hay Chân Như bất biến) vì sợ đứa con chạy mất một lần nữa. Người cha phải thông qua người khác mà nói là có ông nhà giàu kia đang cần đầy tớ, ông phải chờ thời điểm chín muồi mới tiết lộ chân tướng. Cũng vậy Phật chỉ bày chân lý khi căn cơ của đệ tử thuần thục, đủ sức kham lãnh.

Chỉ có mặc cảm khốn cùng ngăn cách người con khốn cùng với người cha đích thực và giàu sang. Cũng vậy chỉ có một mặc cảm duy nhất là ngã tưởng đã ăn sâu vào tư duy con người qua nhiều kiếp luân hồi, khiến cho con người chối bỏ Phật trí, hay thực tướng vô ngã. Khi nào ngã tưởng được dẹp bỏ trong tâm thì liền khi đó thực tại giải thoát trao về mình.

“Ngay cả khi gã cùng tử từ chối người cha thân của mình, thì gã vẫn đích thực là con ruột của ông, không thừa không thiếu gì cả. Cũng thế ngay cả khi chúng ta trôi lăn trong sinh tử, thì ta vẫn có trước mắt mình, trong tâm mình tri kiến Phật và toàn bộ thực tại giải thoát”[4].

2.1.2. Tính giáo dục qua thí dụ Chàng Cùng Tử  

Cùng Tử dụ: Đây là phẩm Tín giải thứ tư Đức Thế Tôn dụ gã cùng tử đã thất lạc người cha đã hơn 40 năm mới gặp lại người cha của mình,do hoàn cảnh kiếm miếng ăn nên gã cùng tử lần hồi tìm đến nhà phú hộ là người cha để làm thuê, làm mướn. “Người cha thất lạc người con đã bấy lâu nay bỗng nhiên gặp lại như một phép màu làm thỏa lòng ao ước bây lâu nay của mình, ông rất mừng rỡ nhưng do ý chí của người con quá nhu nhược ông không muốn làm người con khiếp sợ, nên đã dùng phương tiện lần hồi gặp người con và chỉ bày những cái cần phải chỉ bày đặng sau này trao truyền gia tài quý báu của mình lại cho con”[5].

Người cha nhớ thương con, bỏ xứ đi tìm, dụ cho việc Phật xuất thế hạ trần, sống hòa trần trong cảnh ngũ trược để độ chúng sinh. Nhưng cha thì giàu tột bậc (Phật đầy đủ đức tướng) còn con thì bần cùng khổ sở (chúng sinh phúc mỏng tội dày), nên đứa con không dám nghĩ rằng mình cũng vốn có sẵn đức tính cao quý như cha. Cũng vậy, chúng sinh đều có tính giác, lại tự thấy mình quá hèn kém, không dám nhận mình là con Phật, không dám nghĩ mình có thể thừa hưởng gia tài quý báu của Như Lai. Chúng ta quen với những thứ tầm thường, dơ bẩn, bỗng nhiên một hôm Đức Phật tuyên bố rằng mỗi chúng ta đều là những vị Phật sẽ thành, thì ngơ ngác hoảng sợ. Phật phải dùng nhiều phương tiện dẫn dụ mới có thể khiến chúng ta tin và biết được nguồn gốc của mình, mới vui mừng nghĩ rằng không cầu mà có, tự nhiên mà đến.

Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa trước khi Ngài nhập diệt, Ngài tuyên bố: “Mối liên hệ giữa Đức Phật và hết thảy chúng sinh là mối liên hệ cha và con. Tất cả đều có thể thành Phật”[6]

Mục đích của chư Phật ra đời là: “Khai thị chúng sinh, ngộ, nhập Phật Tri Kiến”.

Cho nên, giáo pháp của Phật nói ra chỉ có Nhất Phật thừa mà thôi. Tuy nhiên, vì căn cơ của chúng sinh chưa hiểu thấu, chưa rốt ráo nên phương tiện nói Tam thừa và Tam thừa ấy cuối cùng rồi cũng đi đến Nhất thừa. Tam thừa ví như hành giả đang đi được nửa đường là hóa thành mà chưa tới Bảo sở. Tới đây các Ngài hiểu vì sao Phật “Khai quyền hiển thật” nên đã tín giải, từ trước đến giờ, các Ngài chỉ niệm tưởng đến ba môn giải thoát là không, vô tướng, vô tác, không có ý mong cầu quả vị vô thượng chính đẳng chính giác. Cũng như Gã Cùng Tử thoả mãn với tiền lương ít ỏi chứ không có ý mong cầu tài sản to lớn của cha.Vì lòng thương tưởng, Phật theo ý của các Ngài mà nói pháp Nhị thừa. Sau đó, Thế Tôn hướng dẫn họ vào Phật trí, điều mà họ chưa từng nghĩ đến. Như người cha từ từ dạy con làm quen với công việc quản lý, rồi sau đó giao gia tài cho nó. Qua đó, ta thấy giáo pháp của Phật luôn dựa trên khế lý và khế cơ. Ở phần phương tiện này Phật đặt nặng khế cơ hơn khế lý, và từ khế cơ đưa đến khế lý, từ đó ta rút ra kinh nghiệm trong việc giáo dục là để đạt mục đích bao giờ cũng phải biết vận dụng phương pháp khéo léo, phối hợp giữa lý và sự sao cho phù hợp với nhu cầu cần thiết của đối tượng giáo dục thì sẽ đạt kết quả. Khi đã làm cho họ tin và hiểu rồi thì việc kế tiếp rất dễ dàng.

Các Ngài tự ví mình như những Cùng Tử để nói lên nỗi khổ bần cùng cơ cực khi bỏ cha trốn đi. Hình ảnh ấy cũng chính là hình ảnh của chúng ta, những người còn đang mê muội, dẫu vẫn học từ Thế Tôn những phương pháp đưa đến Nhất thừa nhưng vì còn bị vô minh che lấp nên vẫn đau khổ triền miên và chưa thể nhận ra Tri kiến Phật của mình. Cho nên, nhận thức được vị trí hiện tại của mình để nỗ lực tiếp tục hốt phân nhơ phiền não là một việc làm rất cần thiết trên bước đường giải thoát.

Chúng ta cũng không phải mặc cảm vì thân phận hèn mọn của mình vì rằng mỗi chúng ta đều có một kho báu vô giá. Kho báu ấy Như Lai sẵn lòng chờ đợi để trao cho khi mà chúng ta có đủ “tư cách” để tiếp nhận. “Tư cách” ấy đạt được khi vô minh phiền não không còn.

Qua hình ảnh gã Cùng Tử hành giả có thể thấy được bóng dáng của mình để từ đó học hỏi noi gương hầu mong được như vị ấy. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự linh động của đức Phật như thế nào trong khi giáo hóa chúng sinh. Có khi ngồi một chỗ nói pháp, có khi phải ứng hoá khắp nơi để tuỳ chúng sinh mà cứu độ. Thế Tôn đã lần lượt chỉ rõ những nguyên nhân ngăn che Phật trí giúp thính chúng nhổ sạch những ngăn che ấy .

2.2. Thí dụ Dược Thảo Dụ (Cây cỏ thuốc)  

2.2.1. Ý nghĩa Dược Thảo Dụ (Cây cỏ thuốc)

Nghe Ngài Đại Ca-diếp và các đại đệ tử nói về công đức chân thật, và nói lên sự thấu hiểu về việc phương tiện thuyết pháp của Như Lai, Phật tán thán và khẳng định lại cho các Ngài biết được công đức của các đức Như Lai nhiều vô lượng vô biên, dù trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được. Đặc biệt là với căn cơ chúng sinh cao thấp không đồng nhau nên Ngài đã phải dùng phương tiện thuyết pháp. Để làm sáng tỏ ý trên và cho chúng hội hiểu được rằng đức Thế Tôn bình đẳng thuyết pháp, Phật dùng thí dụ Dược Thảo để minh hoạ.

Thí như trong cõi tam thiên đại thiên nơi núi, sông, khe hang, ruộng, đất, sinh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ, thuốc, bao nhiêu giống, loại, tên gọi, màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam thiên đại thiên, đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm. Cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: Hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ; Hoặc thứ gốc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; Hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.

Các giống cây lớn nhỏ, tuỳ hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sinh trưởng, đơm bông kết trái. Dẫu rằng một cõi đất sinh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.

Đất là dụ cho Tri Kiến Phật nơi mỗi chúng sinh ai cũng có sẵn.

Mưa là dụ cho pháp Phật dạy chung cho tất cả chúng sinh, nhưng tuỳ theo căn cơ cao thấp mà hiểu sâu hay cạn.

Trong ba loại cỏ cây, cỏ cây bậc nhỏ dụ cho chủng tính Trời, Người, A-tu-la; cỏ cây bực trung dụ cho chủng tính Thanh Văn, Duyên Giác; cỏ cây bực thượng dụ cho chủng tính Bồ tát Đại thừa.

Thân, nhánh, lá là dụ cho sự phát tâm tu hành chứng quả theo từng chủng tính loại khác nhau.

Hai loại cỏ cây, cây nhỏ dụ cho hàng hạ căn Bồ tát, Bồ tát từ Thất địa trở xuống, hay Bồ tát ở trong thế giới thật báo của chư Phật; Cây lớn dụ cho hàng thượng căn Bồ tát, Bồ tát từ Bát địa trở lên, hay Bồ Tát Tùng Địa Dõng Xuất ở thế giới Thường Tịch Quang.Dẫu chúng sinh có cùng Tri Kiến Phật và cùng hưởng một nguồn pháp nhất thừa nhưng chúng sinh có căn cơ  sai khác dẫn đến kết quả sai khác.

Như nước mưa rưới xuống chỉ có cùng một vị, dù các loài hoa cỏ đón nhận khác nhau, tùy theo khả năng của mỗi loài. Cũng vậy pháp mà Thế Tôn thuyết giảng chỉ thuần một vị “ nhất thừa”, và đồng đều cho tất cả. Nhưng vì chúng sinh căn cơ khác nhau, nên sự đón nhận từ một cơn mưa pháp bình đẳng ấy lại khác nhau, do đó mà thành có ý nghĩa các thừa khác nhau như Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát”[7].

Đức Như Lai thuyết pháp giống như trận mưa, pháp vốn không có sai khác, cho nên ý chỉ ở đây là  chỉ có một Phật thừa không hai cũng không ba. “Lẽ ra sau khi trình kiến giải của mình liền được Phật thụ ký ngay, song cần phải khích lệ những căn cơ bậc trung nhận ra tri kiến Phật, nên Phật thí dụ đám mưa, mọi cây cỏ đều thấm nhuần, căn cơ có sai khác, nhưng đều được lợi ích trong một trận pháp vũ”[8].

2.2.2. Tính giáo dục qua thí dụ Dược Thảo Dụ (Cây cỏ thuốc)  

Dược Thảo Dụ: Phẩm này nói rằng đại thiên thế giới, núi đồi hang rãnh và ruộng đất mọc lên cây cối và cỏ thuốc, với bao nhiêu chủng loại mà tên gọi và màu sắc không hề giống nhau. Nhưng mây dày nổi lên và mưa bủa giăng xuống khắp cả đại thiên thế giới ấy; Mưa xuống một cách đồng thời và đồng đều, thấm nhuần tất cả.

“Tất cả cây thuốc rễ nhỏ, nhánh nhỏ, thân nhỏ, lá nhỏ; Cây thuốc rễ vừa, nhánh vừa, thân vừa; Cây thuốc rễ lớn, nhánh lớn, thân lớn, lá lớn… tùy theo tính chất mà được hấp thụ đủ cả. Một trận mưa lớn, xứng hết với các mầm, nên thứ nào cũng được sinh ra, lớn lên, trổ hoa, ra quả và kết hạt. Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm xuống, nhưng các cây cối và cỏ thuốc vẫn có khác nhau.

Ở đây, dược thảo (cỏ thuốc) dụ cho căn tính của chúng sinh trong ba thừa. Cỏ có 3 loại: cỏ nhỏ, cỏ vừa, cỏ lớn, theo thứ tự mà thí dụ cho Nhân – Thiên là cỏ thuốc nhỏ, Thanh văn Duyên giác là cỏ thuốc vừa và Bồ tát là cỏ thuốc lớn. Cùng mọc từ đất, cùng thấm nước mưa, nhưng mọi cây cỏ phát triển đều khác nhau mà không thứ nào tự biết như vậy. Qua âm thanh duy nhất của Phật, như trận mưa pháp lớn, qua việc Phật thường xuyên tạo yếu tố cho bước tới Nhất thừa, tất cả cùng nghe pháp đồng nhất, nhưng mỗi người tu nhân và nhận quả khác nhau mà không ai tự biết. Chỉ có Phật biết rõ mà thuyết pháp cho”[9].

Mưa tuôn xuống một cách bình đẳng không có sự phân biệt đối với bất cứ loại cây nào. Cũng như nước ở biển thì con muỗi cũng no mà con voi cũng không đói ( không bao giờ hết và không phân biệt loại nào). Giáo pháp Đức Phật thuyết cũng như vậy, không phân biệt thượng căn hay hạ căn. Phật bình đẳng nói pháp mà không có sự phân biệt, do chủng tính của mỗi chúng sinh tiếp nhận mà có cao có thấp, đại tiểu khác nhau. Giáo pháp ấy từ đầu đến cuối rốt ráo chỉ có một vị, đó là vị giải thoát.

Qua thí dụ này, một lần nữa chúng ta xác nhận rằng Phật vì lòng thương tưởng chúng sinh nên ứng hiện nơi nhân gian thuyết pháp. Ngài bình đẳng thuyết giảng để làm sao hướng chúng sinh nhận ra và sống bằng Tri Kiến Phật sẵn có của mình. Đó là điểm cần lưu ý trong khi làm công tác hoằng pháp để tránh những tư tưởng lệch lạc khinh trọng đáng tiếc. Tính bình đẳng ấy rất cần thiết trong mọi lĩnh vực và mọi thời đại. Lại nữa, tuy là chủng loại có sự khác biệt nhau nhưng tất cả đều thấm nhuần tuỳ theo đặc tính riêng. Điều đó đã khẳng định cho chúng sinh một niềm tin sâu sắc vào giáo pháp của đức Phật và xoá tan đi những mặc cảm tự ty vốn làm ngăn cản bước tiến của mình. Đó là niềm tin vào tự thân, niềm tin giác ngộ, niềm tin vào Phật tính có sẵn nơi mỗi người. Tin rằng, mọi nỗ lực của chúng ta chắc chắn sẽ có kết quả tốt. Nghĩa là tuy mỗi người hiểu mỗi cách khác nhau tuỳ theo bản chất trí tuệ và hoàn cảnh riêng của mỗi người, nhưng tất cả đều nhận được sự an lạc giải thoát dù ít hay nhiều.

Tóm lại, chúng sinh bình đẳng về Tri Kiến Phật, Phật bình đẳng nói pháp nhất thừa, nhưng tuỳ theo sự hấp thụ của mỗi loài, mà thu được kết quả khác nhau. Tư tưởng này ngay trong Phẩm Phương Tiện Phật đã nói qua bài kệ:

“Chư Phật lưỡng túc tôn

Biết pháp thường không tính

Giống Phật theo duyên sinh

Cho nên nói nhất thừa

Là pháp trụ pháp vị

Tướng thế gian thường trú”[10]

Bài kệ đã khẳng định sự bình đẳng một cách tuyệt đối và trường tồn.

2.3. Thí dụ Ngọc Trong Áo

2.3.1. Ý nghĩa thí dụ Ngọc Trong Áo  

Lúc bấy giờ 500 vị A la hán đã được đức Phật thọ ký xong, các vị ấy vui mừng khôn xiết, liền rời tòa ngồi tới trước Phật lễ Phật và ăn năn lỗi của mình vì trước đây tự cho mình là đã diệt độ, nay mới biết mình là vô trí. Rồi các vị trình lên Phật một ví dụ “ y lý hệ châu”( ngọc châu buộc trong chéo áo)[11] để nói về sự sai lầm của mình: “Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm. Lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi mới lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say cho đó rồi đi. Gã đó say nằm không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác. Vì việc ăn mặc gã phải gắng sức cầu tìm rất nỗi khó nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ. Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng: Chao ôi! Anh này, sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui đem châu báu vô giá cột vào áo anh, nay vẫn còn đó, mà anh không biết. Nay anh đem ngọc báu đó đổi lấy đồ cần dùng, thì thường được vừa ý, không bị thiếu thốn.”

Ở đây, gã say rượu dụ cho các vị  Thánh đệ tử và chúng sinh không nhận ra châu báu vô giá vốn sẵn có nơi mình.

Viên ngọc vô giá dụ cho Phật tính hayqủa vị Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.Được chút ít cho là đủ cũng như sự chấp nhận quả nhỏ của các vị A la hán của hàng Nhị thừa.

Người bạn chỉ châu báu trong áo dụ cho đức Phật giác ngộ cho hàng Thanh Văn phải thấy được Tri Kiến Phật và sống bằng Tri Kiến Phật đó  mới thật là cứu cánh diệt độ, mới thoát khỏi sinh tử luân hồi. Phật tính vốn sẵn có nơi mình mà chúng ta cứ mãi đi tìm cầu giác tính bên ngoài để kéo dài thời gian khổ lụy.

Sự khám phá lớn nhất và đối tượng mong chờ của hành giả trong vô lượng kiếp kiếm tìm lại nằm ngay nơi chính ta, nơi gần gũi nhất của cuộc sống. Quả hạnh phúc chân thật không phải là một sự tìm kiếm! đó là viên ngọc trong chéo áo, đó chính là của báu sẵn có, và là một sự hoàn toàn không mong ước, không chờ đợi và không chiếm đắc. Lời bộc bạch của 500 Tôn giả giác ngộ Nhất thừa, đã lập lại một chủ trương xiển dương của Pháp Hoa là:

“Mọi chúng sinh đều có Phật tính, do đó mọi chúng sinh đều có thể giác ngộ ngay trong hiện tại, tại đây và trên cuộc đời này”[12]      

2.3.2. Tính giáo dục qua thí dụ Ngọc Trong Áo 

Với thí dụ Ngọc trong chéo áo, một lần nữa Đức Phật thiết lập lòng tin cho chúng sinh về khả năng thành Phật của mình. Nếu như Ở những phần trước, đức Phật nói pháp và lần lượt thọ ký cho những bậc thượng căn thượng trí. Đến đây, Phật tiếp tục thọ ký rộng rãi cho đến chúng sinh hạ căn. Đây là điều mà Thế Tôn đã đề cập một cách tế nhị trong phẩm thứ hai: “Tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật vì tất cả đều có Phật tính”.

Sự vui mừng của 500 vị A la hán khi giác ngộ giáo lý Nhất thừa là một sự thật để xác định lại ý nghĩa trên, tức là khả năng thành Phật. Qua đó, chúng sinh càng tin tưởng hơn lời dạy của Phật để phấn đấu tinh tiến tu tập đạt được mục đích giải thoát. Ngọc vô giá hay Phật tính vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh. Nó không phải ở đâu xa mà nó rất gần gũi, ngay trong ta. Phật tính ấy rất mầu nhiệm, không phải mong cầu, chờ đợi hay chiếm đắc mà được bởi vì Phật tính hay thực tại vô ngã tính nằm ở khắp mọi nơi xưa nay như vậy. Chỉ khi nào chúng sinh quay về thực tại không còn vô minh chấp trước tham ái thì sẽ thấy Phật tính ấy hiển hiện.

“Ngọc xinh ngọc ẩn trong đá

Hoa sen nẩy từ bùn

Nên biết tìm giác ngộ

Nơi sinh tử trầm luân”.

Tóm lại, tiếng nói của Pháp Hoa là tiếng nói của trí tuệ, của niềm tin (tín và giải) và hòa bình. Trong xã hội ngày nay Pháp Hoa vẫn là tiếng nói mang đầy giá trị thiết thực cho sự an bình của thế giới. Tính thực tiễn của Pháp Hoa còn biểu hiện ở tính đại chúng, tính bình đẳng, tính nhân văn cao thượng, không những con người thành Phật mà Long Nữ tám tuổi cũng thành Phật. Vì thế nên tầng lớp nào cũng có thể hành trì ứng dụng và thực hành được trong cuộc sống của mình. Nó giúp cho chúng ta biết tu tập để trở về với bản tính Chân Như hay còn gọi là Phật tính nơi chính mình.

CHƯƠNG 3: TÍNH THỰC TIỄN CỦA CÁC THÍ DỤ TRONG KINH PHÁP HOA

3.1. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa với xã hội hiện nay 

3.1.1. Đôi nét về đời sống xã hội hiện nay 

Nói đến xã hội hiện tại, không ai có thể phủ nhận những thành tựu hết sức to lớn của nền văn minh do trí tuệ con người được áp dụng bằng khoa học, kỹ thuật, góp phần tạo nên nền kinh tế phát triển. Sự thành tựu vượt bậc đó đã đem lại cho con người phương tiện sống vô cùng thuận lợi, đưa mức sống của con người lên một tầm cao mới.

Song, vật chất càng nhiều mà không được tu tập, cứ chạy theo vật chất thì lòng người càng thêm tham đắm, từ đó họ không ngững gây ra những cuộc chiến tranh để tranh giành thị trường, tài nguyên thiên nhiên hay tranh giành thế lực, cứ loay hoay theo cơ chế thị trường mà quên hết luân thường đạo lý dẫn đến sự mâu thuẫn trong xã hội loài người ngày một căng thẳng, khoảng cách giàu nghèo càng đẩy xa, mất đi vẻ đẹp thuần vong mỹ tục, nền đạo đức xuống cấp nghiêm trọng.

Như vậy, một cách tổng quát, cũng đủ cho thấy những ưu điểm mà nền văn minh hiện đại mang lại chưa phải là một đáp số cho nhu cầu hạnh phúc. Trong đó, ta còn thấy nó thiếu đi những nhân tố khác quan trọng hơn, đó là đạo đức chân thật mới có thể hỗ trợ và làm tan biến đi những mối ưu tư của loài người.

3.1.2. Tính thực tiễn của các thí dụ trong xã hội hiện nay  

Hoà Thượng Thích Chân Thiện nhận xét:

“ Nếu không hiểu rõ mối liên hệ mật thiết giữa con người với thiên nhiên, con người sẽ không hiểu được sự thật của chính mình, không bảo vệ môi sinh thoát khỏi ô nhiễm như bảo vệ con người ra khỏi khổ đau thì nhân loại sẽ đi đến sự huỷ diệt[13].

Thí Dụ Nhà lửa trong kinh Đức Phật dạy: “Tam giới vô an, do như hoả trạch”. Điều  này không chỉ đúng với xã hội thời Đức Phật, mà nó còn là một chân lý bất diệt. Ở đây chúng ta cần hiểu rằng; đó không phải là ngọn lửa được đốt bằng vật chất, bằng những phương tiện sống,  bằng tiền tài, danh vọng mà là lửa được đốt bởi lòng tham lam, sân hận, và si mê của con người. Cho nên, chừng nào con người còn chưa diệt trừ được lòng tham ái và chấp thủ, thì chừng đó còn bị lửa thiêu đốt.

“Ta thấy chúng sinh bị những sự sinh già, bệnh, chết lo buồn khổ não nó đốt cháy, chúng vì năm món dục, tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi, tìm cầu nên hiện đời thụ các điều khổ..”[14].

Tuy nhiên, tham, sân, si đều có những món ăn thích hợp của nó. Nếu món ăn càng dồi dào thì càng khiến nó phát triển nhanh chóng. Ví như, món ăn của tham là ngũ dục, của sân là danh vọng, chấp thủ và chiếm đoạt, món ăn của si là vô minh, tà kiến. Trong khi bối cảnh hiện tại, con người đang sống trong một thế giới vật chất dư thừa, đã tạo điều kiện cho tam độc ngày một tăng trưởng và biến lòng tham của con người thành cái túi không đáy, vật chất sung mãn bao nhiêu cũng không làm cho con người vừa lòng. Cho nên Kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật dạy:“Người biết đủ tuy nằm trên đất cũng thấy vừa lòng, người không biết đủ tuy ở Thiên đường vẫn thấy không xứng ý”.

Lòng tham của con người không được thoả mãn, liền kéo theo tranh chấp, sân hận và khổ đau xuất hiện. Lòng sân hận cũng là nguyên nhân của mọi cuộc tương sát, chiến tranh và hận thù mà xã hội hiện tại đang diễn ra. Tất cả những thảm hoạ đó đều xuất phát từ vô minh, tà kiến. Do con người không biết đâu là khổ, đâu là hạnh phúc chân thật như những đứa cong ông Trưởng Giả kia không nhận thấy ngôi nhà sắp sụp đổ mà vẫn nhởn nhơ rong chơi trong đó.

Hình ảnh cột, kèo, vách, phên xiêu vẹo của nhà lửa ví như sự khủng hoảng về môi trường thiên nhiên, sự tranh chấp chỉ cho mâu thuẫn giữa các phe phái chính trị đối lập trên thế giới. Tất cả đều được làm sáng tỏ qua lăng kính của Pháp Hoa làm cho ta càng thấy rõ hơn về sự thật khổ đau của đời người.

Nên biết, sự ra khỏi nhà lửa chính là sự thoát khỏi ba độc tham, sân, si. Còn tam giới vốn nó là sinh diệt, vô thường, biến hoại và khổ đau. Chỉ còn lại nơi mỗi con người một tầm nhận thức, một thái độ sống trong sự thấy biết đúng đắn, thấy biết như thật. Có như vậy, hành giả mới không khổ công tìm cầu một Tịnh Độ bên ngoài, mà Tịnh Độ ở nơi mỗi con người chúng ta. Sự ra khỏi nhà lửa là một sự thực nghiệm, thực chứng thực tại khổ đau, nhận ra nguyên nhân của khổ đau, là thể nhập Tri Kiến Phật, thấy được chân hạnh phúc. Tất cả những thí dụ trên đều là pháp khai phương tiện từng phần để dẫn dắt chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến. “Khai Tam hiển Nhất”, nói ba thừa, khi chúng sinh hiểu rồi thì Phật mới nói Nhất thừa. Đặc biệt của kinh là “Khai quyền hiển thực”, có khai quyền mới hiển bày Phật tính, có khai cận “Ứng thân’’, mới hiển bày viễn “Pháp Thân”. Đây là yếu chỉ xuyên suốt kinh Pháp Hoa. Do bởi trí tuệ Phật khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích Chi Phật đều không biết được, nhưng trí tuệ Phật lại sẵn có nơi mỗi chúng sinh, xưa nay vốn thanh tịnh thường hằng nhưng chúng sinh bị tham, sân, si che lấp nên không nhận ra được.

Nếu Đức Phật chỉ nói một Phật thừa cao sâu, mầu nhiệm là cảnh giới vượt ra ngoài ngôn thuyết, lý kuận của thế gian, thì những chúng sinh căn cơ thấp kém không thể tin hiểu. Do không tin rồi sinh tâm chê bai ắt sẽ đoạ vào đường dữ, nên Phật quyết định “Vì các loại chúng sinh phân biệt ba nói thừa”. Ngài đã mượn các thí dụ sinh động dễ hiểu, bình dị, gần gũi với cuộc sống tâm lý thường tình của con người, nhưng lại mang tính văn chương nghệ thuật cao, qua đó đã truyền tải được cái ý nghĩa thâm sâu của pháp Phật nhiệm mầu.

Trước hết, Ngài dùng phương tiện nói rằng Ngài mới thành Phật để khích lệ chúng ta tu hành; Rằng Ngài mang thân người mà đạt quả vị toàn giác, thì chắc chắn chúng ta cũng tu hành và thành Phật. Đó chính là phương tiện, không phải chân thật. Tuy phương tiện không thật, nhưng gần giống với chân thật để khích lệ chúng ta. Ví dụ: Cô giáo vẽ chiếc ô tô trên bảng hay đưa ra mô hình chiếc xe, mặc dù không phải là chiếc xe thật, nhưng nó cũng giống thật và giúp học sinh hình dung ra chiếc xe .

Tất cả các thí dụ nói trên đều là pháp phương tiện, như hình ảnh ngôi nhà lửa, ba xe, gã cùng tử, cây cỏ thuốc hay vị lương y…đều không có trong thực tế, nhưng cũng đủ để chúng ta hình dung hay nhận ra Tri Kiến Phập, nương vào đó tu hành, cũng thành tựu quả vị Phật.

Cũng vậy, Phật tử chúng ta đến chùa, về hình thức tu giống nhau nhưng sự chứng ngộ của mỗi người lại hoàn toàn khác nhau, vì động cơ và chuyển biến nội tâm khác nhau.

Phật dạy chúng ta nói việc đã làm và làm việc đã nói. Ví như ta khuyên người khác sám hối và lễ Hồng danh để tiêu túc nghiệp, thì bản thân mình phải tu pháp này và đạt được thành quả nhất định, thì người khác mới tin theo. Bước đầu tu hành, phát huy hiểu biết, nói đúng làm đúng, khiến người tin tưởng tu theo, là đã thành tựu đạo đức, tức pháp chân thật.

Những người học Pháp Hoa nghe nói thế giới này là nhà lửa, liền nghĩ phải cấp tốc bỏ chạy, hay chê gã cùng tửu là kẻ ngu si…Nghĩa là từ chấp CÓ, họ lại rơi vào chấp KHÔNG. Thử nghĩ xem, chạy ra khỏi nhà lửa này, chúng ta được gì? Đức Phật thường dạy: Nếu rời bỏ thực tế cuộc sống, chẳng khác gì nắm bắt lông Rùa sừng Thỏ “ Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mích Bồ Đề, thí như cầu thố giác”.

Qua hình ảnh các thí dụ, cho ta thấy kinh Pháp Hoa có tư tưởng dung thông hợp nhất “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, và tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Cho nên, người trí, kẻ ngu, người thiện kẻ ác đều được thọ ký thành Phật. Tính thực tiễn của các thí dụ còn được biểu hiện ở cách dùng hình ảnh và ngôn ngữ gần gũi của Đức Phật. Hễ đọc lên, ai ai cũng có thể hiểu ngày và hình dung ra Tri Kiến Phật một cách rõ ràng. Qua những thí dụ gần gũi ấy, chúng sinh tin chắc mình vốn sẵn có Phật Tính, chắc chắn sẽ hạ thủ công phu tu tập để thành tựu Phật quả, Như quặng sẵn có vàng, người tu là gạn lọc cho vàng hiển lộ ra mà thôi.

Tất cả những thí dụ để giúp chúng ta hiểu rằng: Với người cầu đạo Thanh văn, Phật thuyết pháp Tứ Đế, với người cầu Duyên Giác, Phật thuyết pháp Mười Hai Nhân Duyên, với người cầu Đạo Bồ Tát, Phật thuyết pháp Lục Độ. Phật đã dùng ba xe để dụ cho Tam thừa giáo, và Ngài khẳng định rằng tam thừa giáo chỉ là phương tiện mà thôi.

3.2. Kinh Pháp Hoa với đời sống thực nghiệm tâm linh  

Khi Đức Phật mới vừa thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài liền suy nghĩ: “Giáo lý mà ta chứng ngộ, quá siêu việt, siêu lý luận, siêu ngôn ngữ, thậm thâm vi diệu. Còn chúng sinh ở giữa đời này thường ham thích ái dục, khoái ái dục thì làm sao hiểu cho thấu”. Cho nên Ngài chần chừ, ngần ngại chưa muốn thuyết pháp. Hàng Chư Thiên biết rỏ tâm ý của Ngài, cho nên mới đi đến thỉnh cầu Thế Tôn thuyết pháp. Đức Phật nhìn giữa hồ sen, thấy các hoa sen, có thứ đã ngoi lên khỏi bùn mà chưa khỏi nước, có thứ mọc lên giữa nước mà chưa mọc lên khỏi mặt nước, có thứ mọc lên khỏi mặt nước mà chưa nỡ, có thứ sắp nở đang đợi ánh sáng mặt trời mới nở ra.

Đức Phật nghĩ rằng: “Tất cả chúng sinh ở thế giới này cũng đều như thế, có hạng căn cơ thấp, có hạng căn cơ vừa, có hạng căn cơ cao, nhưng nếu các hạng căn cơ đó được gặp ánh sáng, được gặp giáo lý của Đức Phật cũng sẽ được giải thoát và giác ngộ”. Do đó, Ngài quyết định chuyển pháp luân, thuyết pháp độ sinh.

Lại nữa, hoa sen còn có một đặc tính rất đặc biệt, vì tính đặc biệt đó nên Thế Tôn đã lấy nó ví dụ cho Diệu pháp của Ngài. Vậy Diệu pháp đó là gì? Đó chính là cái Phật tính, tri kiến Phật bất sinh bất diệt, không bẩn, không sạch, ở Phật nó không tăng và ở chúng sinh nó không giảm. Thấy biết như thế nào gọi là thấy biết Phật? Thấy biết như thế nào gọi là thấy biết chúng sinh? Phải mà thấy trái là thấy biết chúng sinh. Thấy biết sự thật là thấy biết của Phật. Giả mà thấy thật là thấy biết của chúng sinh, thấy đúng sự thật là thấy biết của Phật. Vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã là thấy biết của chúng sinh. Trái lại vô thường thấy là vô thường, vô ngã thấy là vô ngã là thấy biết của Phật vậy. Thật đúng như vậy cái thấy biết của Phật là thấy đúng sự thật, cái thấy biết đúng chân lý, đúng tính tướng của sự vật, nhìn sự vật hiện tượng trên bản thể của nó. Đó là cái thấy biết thoát ra ngoài sự tướng có, không, thường, đoạn, nhị biên theo thiên kiến của chúng sinh chỉ nhìn nhận sự vậttrên hiện tượng nên bị đau khổ. Thấy biết Phật đó nó bao hàm tất cả tính từ bi, hỷ xả, trí tuệ, giải thoát nên cái thấy biết đó cao quý vô cùng, ví như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm hôi tanh mùi bùn. Hoa sen mọc trong bùn là gì? Phật giáo ví dụ bùn đó là phiền não của chúng sinh, phiền não đó làm cho cái thấy biết như thật của Phật bị khuất lấp, không hiển không lộ, cũng như bùn nước khuất lấp hoa sen, nhưng khi đủ nhân duyên thì, hoa tất sẽ mọc lên. Hoa mọc lên từ trong bùn, nước cũng như cái thấy biết Phật xuất hiện từ trong tâm phiền não của chúng sinh. Nó không thể có từ nơi khác được.

Ngộ Ấn Thiền sư cũng có bài kệ nói về một chút hoa sen trong mình như sau:

“Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu

Rỗng không tâm ngộ có gì đâu.

Trên non ngọc đốt màu thường đẹp,

Sen nở trong lò ướt chưa khô”

(Lê Mạnh Thát dịch)

Ngày nay pháp môn Niệm Phật rất phổ biến và thích hợp với mọi căn cơ của chúng sinh. Chúng ta niệm Phật cầu vãng sinh cũng là lấy biểu tượng hoa sen “Chín phẩm sen vàng lên giải thoát”. Thành thử hoa sen bên trong ứng với hoa sen bên ngoài. Bên ngoài phù hợp với bên trong. Nếu tâm của chúng ta thanh tịnh đến chừng nào thì hoa sen của chúng ta khi cầu nguyện vãng sinh cũng lớn chừng đó (Thượng phẩm thượng sinh). Vì tự tính Di Đà, duy tâm tịnh độ nên khi niệm Phật diệt trừ tam độc tới đâu thì tính Di Đà hiển lộ tới đó và cõi tịnh cũng tương ứng theo. Kinh Duy Ma Cật có nói:

Tâm tịnh quốc độ tịnh, tâm nhơ quốc độ nhơ

Vậy trì tụng, sao chép, diễn nói…Kinh Pháp Hoa cũng để làm sao cho cái hoa sen trong chính tự tâm chúng ta ngày càng mọc lên tươi tốt, thoát khỏi bùn, xuất hiện hiển bày toả hương ngát thơm cho đời.

Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các trường phái Phật giáo. Mặt khác đặt lại giá trị của mọi đường lối tu tập và nhất là giá trị tâm thức hướng thiện, hướng thượng của mọi chúng sinh. Sự tồn tại của Đức Phật là vĩnh cửu, mọi hiện tượng dưới con mắt người giác ngộ đều là biểu hiện chân lý. Ý tưởng này đã làm nền tảng cho tư tưởng Đại thừa và con đường thực hành Bồ-tát hạnh.

Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh rất cao quý, tóm thâu tất cả giáo lý mà Phật đã dạy cho đệ tử suốt 45 năm. Trước khi thuyết kinh này, vì căn cơ hàng đệ tử không đồng, Ngài đã dùng rất nhiều phương tiện để dẫn dắt họ dần dần đi đến nhất thừa đạo. Đến khi căn cơ của chúng sinh thuần thục, Phật mới nói thẳng đạo nhất thừa. Nhất thừa đạo không có nghĩa là phủ nhận tất cả các pháp môn phương tiện mà Đức Phật đã nói trước đây. Nhất thừa đạo chỉ muốn nói rằng những pháp môn trước kia chỉ là những nấc thang, những phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sinh vào nhất thừa (Hội tam quy nhất, khai quyền hiển thực). Ví như Vị lương y sau khi đã hiểu rỏ căn bệnh, hiểu rỏ thuốc chữa trị, cách điều trị, mới cho bệnh nhân dùng thuốc này hay thuốc khác. Cũng vậy Đức Phật có nhiều thuốc chữa lành mọi căn bệnh của chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh ra khỏi ba cảnh đời lửa đốt.

– Cảnh đời của thân vật chất

– Cảnh sống của thân vận động, tham dục

– Cảnh sống của lo nghĩ, tính toán, khái niệm.

Đức Thế Tôn đã tùy theo căn cơ chúng sinh mà dùng phương tiện này hayphương tiện khác. Tuy tạm chia có ba trình độ ở phương tiện giải thoát, thật ra chỉ có một, vì dầu nói chứng quả Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát, tất cả những quả ấy đều như những trụ đá đánh dấu trên con đường duy nhất, là con đường đưa đến giác ngộ, thể nhập tri kiến-trí tuệ Như Lai (Phật đạo).

Như vậy con đường (Phật đạo) chỉ có một (Duy một Phật thừa) nhưng vì chúng sinh có nhiều tầng lớp khác nhau, sợ chúng sinh nản lòng, Phật đã lấy dụ Hóa thành (Phẩm thứ 7) để quyền thuyết Niết bàn với Thanh văn, sự thật tuyệt đối Niết bàn ấy chưa phải đích cuối cùng, đó chỉ là những hóa thành  được Như lai hóa hiện cho chúng sinh tạm nghỉ mà thôi. Như vậy giáo nghĩa Nhất thừa, chư pháp thật tướng hay bao nhiêu chân lý tuyệt vời trong kinh thường được trình bày dưới hình thức những ví dụ, có giá trị như những câu chuyện ngụ ngôn mà chúng ta cần phải nhận định và tìm hiểu cái nghĩa ẩn chứa trong ấy. Những ví dụ, ngụ ngôn ấy Đức Phật gọi là phương tiện, mà phương tiện thuộc về thế gian. Vậy lối trình bày trong kinh Pháp hoa là lối “ Dĩ huyễn độ chân”. Lấy việc đời mà dẫn ý đạo- cũng như nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng. Chúng ta dựa trên cơ sở các ví dụ này mà thông hiểu toàn bộ giáo lý của kinh Pháp hoa. Pháp Hoa gỡ bỏ bám víu cuối cùng của con người vào trạng thái an lạc trong nội tâm để tiến lên trên một con đường rộng lớn (ví dụ nhà lửa, ví dụ hóa thành…). Con đường này đưa hành giả đi giữa lòng cuộc đời để hoàn thành tuệ giác vô thượng. Bằng cách đem ánh sáng lành mạnh của nội tâm mình chan hòa lên mọi sự sống, giúp tất cả chúng sinh đều thấm nhuần hương vị giải thoát của Phật pháp, và nhờ đó, thế giới của chúng sinh được chuyển hóa thành thế giới thanh tịnh trang nghiêm của mười phương chư Phật.

Tóm lại, tiếng nói của Pháp hoa là tiếng nói của trí tuệ, của niềm tin (tín và giải) và hòa bình. Trong xã hội nhân loại ngày nay, rất cần truyền bá kinh vì kinh này mang nhiều giá trị nhân văn, bình đẳng, từ bi và trí tuệ. Pháp Hoa là tiếng nói mang tính thực tiễn và có giá trị thiết thực giúp cho sự an bình của thế giới và nhân loại.

3.3. Đối với bản thân trong đời sống tu tập  

Không phải ngẫu nhiên Pháp Hoa được xếp vào hàng “Vua trong các kinh”, bởi kinh thuộc giáo nghĩa tối thượng thừa mà Đức Phật nói ra để đưa hàng đệ tử đến Nhất thừa đạo, chứng quả vị Phật thừa.

Đức Phật dạy: “Nhất Phật thừa là giáo lý cao siêu, chỉ dành cho hàng căn cơ thuần thục”. Cho nên, ai viết chép, thọ trì, giảng nói được kinh này phải biết người ấy có công đức vô lượng. Nếu không nhờ có lòng tin lớn, gieo trồng căn lành từ vô lượng kiếp thì khó mà thành tựu được. Trong kinh Pháp Bảo Đàn có đoạn nói: Có vị thầy Pháp Đạt một hôm đến tham bái lục Tổ Huệ Năng, vị đó đỉnh lễ Tổ ba lạy mà đầu không sát đất, Tổ quở rằng:

“Lạy là để phá trừ kiêu mạn, tỏ lòng cung kính, lạy mà đầu không chấm đất chi bằng đừng lạy”. Trong tâm ngươi hẳn có điều gì chất chứa, hãy nói ra xem? Pháp Đạt thưa: Tôi niệm kinh Pháp Hoa đã tới ba ngàn bộ. Tổ nói: “Nếu nhà ngươi niệm đến muôn bộ, hiểu được ý kinh, nhưng chẳng cho đó là hơn người, thì cùng đi một đường với Ta. Nay nhà ngươi ỷ vào việc tụng kinh, nên chẳng biết lỗi”.

Rồi Tổ nói kệ:

“Lễ vốn diệt kiêu mạn

Sao đầu chẳng sát đất

Chấp ngã, tội liền sinh

Quên công, phúc cao ngất”.

Pháp Đạt nghe kệ xong, hối lỗi mà tạ rằng: “Từ nay về sau, xin khiêm cung với tất cả”[15]

Kinh Pháp Hoa cũng dạy một hạnh khiêm cung, nhẫn nhục qua hình ảnh Bồ Tát Tường Bất Khinh, gặp ai cũng cung kính chắp tay nói: “ Tôi không dám khinh Ngài, vì trước sau Ngài cũng sẽ thành Phật”. Có người nghe sinh hoan hỷ, có người mắng nhiếc, nhưng Ngài vẫn giữ một tâm niệm khiêm nhường như thế. Vì ngài biết rõ, mọi người ai cũng có Phật tính và khả năng tu hành thành Phật. Tất cả chúng sinh, hoặc trong hiện tại hay vị lai, nếu đã từng một lần được nghe kinh Pháp Hoa nhất định sẽ thành Phật. Hình ảnh Bồ Tát Thường Bất Khinh khiến ta dẹp bỏ được tâm ngã mạn. Trên đường tu, chừng ấy thôi chúng ta cũng được bao nhiêu lợi ích rồi. Nên Phật dạy, người trì kinh Pháp Hoa, ví như người đào giếng trên cao nguyên, là việc làm vô cùng khó khăn, cao nguyên ví như đồng hoang sinh tử. Nước trên đó chỉ cho nguồn tâm thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng sinh. Nhưng vì vô minh che lấp nên nguồn tâm ấy không hiển lộ. Như người có trí ra sức đào mãi, nhất định cũng đến phần đất ướt, cứ như vậy mãi cũng phải đến mạch nước ngầm, tức là thấy Đạo, đào tiếp cho đến khi nước phun lên là thể nhập Phật tính, là thành tựu Phật quả.

Song, việc đào giếng có thể một năm, hai năm hay vài mươi năm rồi cũng hoàn thành, nhưng việc tu tập và hành trì theo kinh Pháp Hoa để ngộ nhập Phật Tri Kiến “Nhất Thiết chủng trí” là sự nghiệp cửa cả một đời, nhiều đời hay nhiều A tăng kỳ hiếp cũng chưa chắc đã thành tựu, nếu ta cũng không dõng mãnh, tinh cần.

Như vậy, rõ ràng việc hành trì theo kinh Pháp Hoa là rất khó, bởi nghĩa lý vô cùng thâm sâu. Nên người muốn thọ trì Pháp Hoa được viên mãn, trước hết phải hội đủ ba điều kiện căn bản như phẩm Pháp Sư Công Đức nói là: “Ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai”.

Thứ nhất, hành giả muốn thụ trì kinh Pháp Hoa phải sống trong nhà Như Lai. Tức là phải có tấm lòng từ bi với chúng sinh như mẹ thương con. Nếu thiếu tâm từ, chúng ta không thể hành trì được Pháp Hoa, Như tiền kiếp Ngài Di Lặc Bồ Tát là Cầu Danh, nhờ phát tâm Tam Muội, mang tên Từ Thị, sau được Phật thọ ký thành Phật. Do đó, chúng ta phải lấy từ bi làm nhà, cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh khiến họ đi đến  giải thoát giác ngộ. Cũng vậy, Phật xem tất cả chúng sinh như con ruột, luôn trải tâm từ và mang lại an lạc cho chúng sinh. Chúng ta là những người con Phật, nên phải thực hành theo những gì Phật đã làm, đi trên con đường Phật đã đi mới mong thành tựu được đạo quả.

Thứ hai, muốn thụ trì Pháp Hoa hành giả phải mặc áo Như Lai, nghĩa là trang nghiêm thân tâm bằng hạnh nhu hòa, nhẫn nhục. Chỉ có tâm từ thôi chưa đủ, mà phải dùng những ngôn từ yêu thương để hóa độ chúng sinh. Chúng sinh đối với Phật Pháp như đứa trẻ vậy. Nên biết, thuốc Pháp Hoa là liều thuốc Tối thượng thừa, nếu không bọc một lớp đường nhu hòa, từ ái, nhẫn nhục thì chúng sinh không thể uống được. Nhưng nhẫn nhục mà Đức Phật dạy ở đây là nhẫn nhụctrong trí tuệ sáng suốt, nhẫn để giáo hóa. Như khi Đức Phật hỏi lại kẻ đã mắng nhiếc mình: “Nếu ngươi mang lễ vật đến biếu người, người không nhận. Lễ ấy thuộc về ngươi đúng không?” Đức nhẫn này rất cần thiết để vượt khỏi khó khăn trên con đường thuyết pháp độ sinh.

Điều kiện thứ ba của người giảng nói Pháp Hoa là phải ngồi tòa Như Lai. Ngồi là “An trú”, tòa Như Lai nghĩa là vị Đại Bồ Tát quán: “Nhất thiết pháp không như thật tướng” chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng nói, chẳng chuyển như hư không “Không” đây có nghĩa là vô tự tính của các Pháp. Vì các pháp là vô tự tính, nên bất khả đắc. Đức Phật an trú trong Chân Không ấy nên gọi là ngồi tòa Như Lai. Kinh Kim Cương nói:

“Như thị diệt độ vô lượng, vô số vô biên chúng sinh thực vô chúng sinh đắc diệt độ giả”[16].

Trọn đời Đức Phật độ sinh mà Ngài nói Ta không thấy có chúng sinh nào được độ, nên sự thuyết pháp độ sinh mới viên mãn. Đức Phật ở trong vô tự tính, nên không còn thấy tướng chúng sinh. Với tất cả chúng sinh đều bình đẳng nói pháp, vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều. Hành giả trì kinh Pháp Hoa tại gia hay xuất gia nên sinh lòng từ lớn, còn hàng Bồ Tát sinh lòng bi lớn. Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Như Lai, Vì kinh chỉ bày Tri Kiến Phật, nên chỉ cho người rất khó, vì nó không có tướng mạo, vượt ngoài ngôn ngữ. Song, nó hằng hiện hữu nơi chúng ta.

Tóm lại, ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai là ba đức tính, ba điều kiện căn bản để việc đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa được rốt ráo viên mãn. Người hộ trì, giảng nói kinh Pháp Hoa, trước phải giữ gìn giới luật, tức là an trú bốn pháp: 1. Hành xứ: An trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu chẳng kinh sợ; 2. Thân cận xứ: Không gần gũi vua quan và ngoại đạo… những đối tượng này nếu phải thuyết pháp thì không nên thân cận. Quán các pháp không như thật tướng, chẳng điên đảo, chẳng động như hư không; 3. An lạc hạnh: Chẳng nói lỗi của người khác và Kinh, chẳng khinh mạn pháp sư khác, đối với hàng Thanh Văn không khen không chê. Đối với tất cả chúng sinh phải khởi tâm bình đẳng nói pháp. Đối với các Như Lai, Bồ Tát phải thường kính lễ; 4. Khởi đại bi tâm: Tâm sinh lòng từ đối với người tại gia, xuất gia. Người thành tựu bốn pháp này thì lúc thuyết pháp không có lầm lỗi. Như vậy, ta thấy mở đầu kinh đề cập ngài Văn Thù, nghĩa là tiêu biểu cho trí tuệ, có trí tuệ mới thâm nhập được kinh Pháp Hoa. Kết thúc kinh Pháp Hoa là phẩm Phổ Hiền khuyến phát tức là nói về sự tu hành, có tu hành mới thành đạt được trí tuệ. Đó là ý nghĩa của tri hành kết hợp.

Trong phẩm Pháp Sư Công Đức có ghi: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thụ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, tụng, giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này, trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh”[17]

Cũng trong phẩm Phẩm Pháp Sư Công Đức, Đức Phật thọ ký rằng: “Người nào đọc tụng, thụ trì kinh Pháp Hoa là người ấy đã tự trang nghiêm mình bằng sự trang nghiêm của Đức Phật. Do đó, được Đức Như Lai mang trên vai Ngài”[18].

Kinh Pháp Hoa xem trọng Phật tính hay Tri Kiến Phật bình đẳng nơi mỗi chúng sinh qua câu nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, nếu ai biết quay lại sống với Tri Kiến Phật nơi mình thì sẽ được diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nên Phật dạy, chúng ta thực hành Bồ Tát đạo với tâm bình đẳng giáo hóa, không chối bỏ người nào kẻ oán cũng như người thân. Cho nên, học hỏi và tu tập Diệu Pháp là con đường quay trở về với chính mình và thực tại, nhận rõ ở đó không có mặt của ngã tướng, để từ bỏ tham ái và chấp thủ, trở về sống với Tri Kiến Phật sẵn có, với Pháp Thân không hình, không tướng, không sinh không diệt, nên công đức là không thể nghĩ bàn.

KẾT LUẬN

Tự thân của Phật pháp vốn là tích cực, là phục vụ quần sinh, bởi vì Phật pháp giúp con người dập tắt mọi khổ đau ngay giữa cuộc đời này. Sự giáo dục trong Kinh Pháp Hoa  chỉ dạy cho chúng ta rằng: Con đường đi ra khỏi tam giới thực sự là con đường đi vào cuộc đời với tâm ý vô tham vô sân vô si, vô chấp với lòng đại từ đại bi và với tinh thần hỷ xả, nhẫn nại, tinh tiến tu hành. Đặc biệt giáo lý Pháp Hoa dựa trên tinh thần vô ngã vị tha nên đã hướng con người đến với cuộc sống bằng cái nhìn trí tuệ, nhờ đó mà họ có thể tự mình nhận thức được sự khổ đau và con đường thoát khổ để đạt đến hạnh phúc chân thật.

Đức Phật dùng nhiều phương tiện để dìu dắt chúng sinh, phương pháp giáo hóa bằng cách dùng những thí dụ là một trong những pháp mà đức Phật thường sử dụng bởi giá trị thiết thực và tính hiệu quả của nó. Chỉ bằng những thí dụ cụ thể như ngôi nhà lửa, chàng cùng tử, cây cỏ thuốc hay ngọc trong chéo áo, Vị lương y…vv có thể làm cho hội chúng lĩnh hội được ý nghĩa sâu xa của kinh mà không cần phải dùng những mỹ từ khó hiểu, đó là cách truyền đạt chân lý cao siêu qua cái bình thường và thông dụng. Vì vậy, ngôn ngữ Pháp Hoa diễn đạt mục tiêu không phải là sự kiện, mà chính là sự thật chứa ở bên trong. Nói cách khác, ngôn ngữ của Pháp Hoa là mang tính biểu tượng, truyền tải sự thật đến mưc tối đa.

Qua những thí dụ, Đức Phật không chỉ khẳng định tri kiến Phật là báu vật nơi mỗi chúng sinh, mà còn khẳng định Đạo Nhất Thừa khi đúng thời mới khai mở. Như vậy, với Tam Chu, Cửu Dụ Đức Phật đã chỉ rõ chỗ khai quyền phương tiện hay Tam Thừa để quy Nhất Thừa.

Mỗi thí dụ trong kinh Pháp Hoa là mỗi câu chuyện ngụ ngôn, với chín phương pháp ẩn dụ khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở một điểm đó là: Đức Phật nhìn tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nên dù một điều thiện nhỏ của chúng sinh cũng là nhân duyên để thành Phật trong vô lượng kiếp  về sau. Tất cả mọi người có được lòng tin: “Chính mình là Phật” nên đã tìm về với nhau trong biển cả Đại Giác. Đó là điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thụ ký cho không những hàng Thanh Văn thành Phật, mà còn cả Long nữ cũng thành Phật. Đây là điểm đặc sắc nhất của Kinh Pháp Hoa mà những kinh khác không nói tới.

Qua Lăng kính Pháp Hoa, Đức Phật đã đưa vị trí của con người ngang bằng với chư Phật được thể hiện trong câu nói: “ Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Đó là sự bình đẳng tuyệt đối về mặt chứng đắc của Phật giáo Đại Thừa nói chung và Kinh Pháp Hoa nói riêng. Đó cũng là một sự ấn chứng, khuyến khích hành giả tu tập Bồ Tát hạnh, tinh tiến dũng mãnh trên con đường thể nhập Tri Kiến Phật để tự ngộ mình và làm lợi ích cho tha nhân.

Theo kinh Hoa Nghiêm, sự tác động tương nhân, tương duyên, trùng trùng duyên khởi tác động qua lại lẫn nhau nên sự đóng góp của yếu tố giáo dục rất quan trọng nó tạo ra nhân cách, lối sống, đạo đức cao đẹp, hướng con người đi đúng hướng, góp phần làm cho xã hội ngày càng văn minh. Cho nên, giáo dục là nền tảng phát triển xã hội, là thước đo nền văn minh của một quốc gia. Giáo dục càng tốt thì xã hội càng ổn định và đời sống con người càng phồn vinh thịnh vượng. Đó là niềm hạnh phúc mà loài người luôn vươn tới trong cuộc sống hiện tại và tương lai.

Để trở về với chính “ Bản Lai Diện Mục” nơi mình chúng ta phải là những học giả hiểu rõ giáo lý của Như Lai, một cách thấu triệt về nghĩa lý của kinh, từ chỗ thấu triệt đó ta phải trở thành những hành giả thật sự và bằng nỗ lực tự thân, vận hành chính pháp ấy vào đời sống thực tại của mình.

Như vậy,từ ý nghĩa giáo dục, Phật giáo dạy con người hướng đến lối sống Chân-Thiện- Mỹ cao thượng hơn, vượt khỏi sự hệ lụy của vật chất tầm thường. Giáo dục Phật giáo là giúp chúng ta sửa đổi về nhận thức từ  ngay nơi tâm củachính mình, sống thiểu dục tri túc, ham muốn ít, biết đủ và có khả năng làm chủ thân tâm để đoạn trừ tham, sân, si mà giải thoát.

Tổ Trần Nhân Tông cũng có bài kệ Cư Trần Lạc Đạo Phú để nói lên sự an lạc giải thoát tự tại:

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”

Dịch:

Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên

Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi Thiền”

Chỉ khi nào tâm được thanh tịnh trong sáng, không còn vô minh phiền não chi phối thì khi ấy hạnh phúc thật sự mới hiển bày và thấy được an lạc thật sự, đó làcủa báu ngay chính trong ta, Cực Lạc ngay ở thế gian này không tìm cầu ở nơi nào khác. Từ nơi tâm thanh tịnh dẫn đến Quốc độ thanh tịnh và Thế giới thanh tịnh, chúng sinh sẽ được an vui.

 


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

[1].     HT. Thích Thanh Kiểm: ĐẠI Ý KINH PHÁP HOA, Nxb TPHCM,         năm 1990

[2].     HT. Thích Thiện Siêu: LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA, nxb Tôn Giáo 2006

[3].     HT Thiện Siêu: VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN  Nxb TpHCM, năm 1999

[4].     HTThích Chân Thiện: TƯ TƯỞNG KINH PHÁP HOA, NxbTôn Giáo, năm 1999

[5].     Trí Quang Thượng nhân: PHÁP HOA LƯỢC GIẢI, nxb Tp Hồ chí Minh 2542- 1998

[6].     NIKKYO NIWANO biên soạn, Trần Tuấn Mẫn dịch, ĐẠO PHẬT NGÀY NAY một diễn dịch mới về ba bộ kinh Pháp Hoa, nxb Phương Đông 2009.

[7].     HT Thích Minh Châu: KINH TƯƠNG ƯNG IV, ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM, Viện Nghiên Cứu Phật Học VN ấn hành năm 1999.

[8].     HT Thích Thanh Từ: KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI, Nxb Tôn giáo, năm 2005

[9].     HT Thích Trí Quảng: LƯỢC GIẢI BỔN MÔN PHÁP HOA KINH, Nxb Tôn giáo Hà  Nội, năm 2002.

[10].   HT Thích Chân Thiện: LÝ THUYẾT NHÂN TÍNH QUA KINH TẠNG PALI, Nxb TP.HCM, năm  1999

[11].   HT Thích Trí Tịnh – Phẩm Thí Dụ, KINH PHÁP HOA, Nxb TP HCM, năm 2000

[12]    HT Thích Trí Tịnh – KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA – Phẩm Pháp Sư Công Đức thứ 19.

[13].   Đoàn Trung Còn: PHÁP BẢO ĐÀN KINH,  Nxb Tôn Giáo

[14].   Cư Sĩ Thiều Chửu biên dịch: KINH KIM CƯƠNG

[15].  Nguồn: http://www.giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=564652

[16].   www. daophatngaynay.com

[17].   www.giacngo.vn

[18].   www.phattuvietnam.net

[1]HT. Thích Thanh Kiểm: “Đại ý kinh Pháp Hoa”, nhà xuất bản TPHCM, năm 1990, tr49.

[2]HT. Thích Thiện Siêu, Lược giảng kinh Pháp Hoa, nxb Tôn Giáo 2006, tr. 507.

[3]HT. Thiện Siêu: “ Vô ngã là Niết Bàn”, Nxb TpHCM, năm 1999, tr44.

[4]HT. Chân Thiện: “Tư Tưởng Kinh Pháp Hoa”, NxbTôn Giáo, năm 1999, tr 61).

[5]Trí Quang Thượng nhân, Pháp Hoa lược giải, nxb Tp Hồ chí Minh 2542- 1998, tr.260

[6]NIKKYO NIWANO biên soạn, Trần Tuấn Mẫn dịch, Đạo Phật Ngày Nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh Pháp Hoa, nxb Phương Đông 2009, tr.168.

[7]HT. Thích Chân Thiện “ Tư Tưởng Kinh Pháp Hoa, NxbTôn giáo, năm 1999.tr 63).

[8]HT. Thích Thanh Từ: “ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải”, Nxb Tôn giáo, năm 2005, tr764

[9]Theonguồn: http://www.giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=564652

[10]HT. Chân Thiện: Tư Tưởng Kinh Pháp Hoa”, trích phẩm phương tiện thứ hai, Nxb Tôn giáo, năm 1999

[11]HT. Thích Thanh Kiểm- Ibid, tr 122.

[12]HT Thích Chân Thiện- Ibid, tr 85.

[13]HT Thích Chân Thiện: “ Lý thuyết Nhân Tính Qua Kinh Tạng Pà Li”, NXB TP.HCM, năm  1999, tr 79

[14]HT Thích Trí Tịnh – Phẩm Thí Dụ, Kinh Pháp Hoa, NXB TP HCM, năm 2000, tr 114

[15]Đoàn Trung Còn: “ Pháp Bảo Đàn Kinh” NXB Tôn Giáo, Tr 67~68

[16]Cư Sĩ Thiều Chửu biên dịch: “Kinh Kim Cương”, tr102

[17]HT Thích Trí Tịnh – Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – phẩm Pháp Sư Công Đức thứ 19, tr 457

[18] HT Thích Trí Tịnh, Ibid, tr 346.