Tìm hiểu về Hạnh phúc qua phẩm An Lạc Hạnh trong Kinh Pháp Hoa (Ni sinh Thích Nữ Huệ Từ)

13/ 04/ 2018 15:59:49

A. PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lý do chọn đề tài

Đức Phật là vị giáo chủ đầy tính vị tha, Ngài đã khẳng định sự ra đời của Ngài vì muốn đem lại hạnh phúc cho số đông, đem lại hạnh phúc cho chư Thiên và loài người. Ngài xuất hiện trên đời này là vì hết thảy chúng sinh đang khổ đau. Bởi lầm chấp vọng tưởng đảo điên nhận huyễn là chân, bỏ hình theo bóng cho nên chúng sinh mới bị cuốn trôi theo dòng xoáy của luân hồi sinh tử. Đức Phật luôn muốn chúng sinh nhận chân rõ sự thật, nhận được cái chân thật của cuộc đời và nhận ra cái bản thể thanh tịnh của mình. Cái bản thể ấy vốn không sinh không diệt, không nhơ không sạch vẫn thường hằng dù ở bất cứ cảnh giới nào. Đó chính là Tri Kiến Phật, Tri kiến Như Lai, tri kiến giải thoát. Đức Phật ra đời để chỉ cho chúng sinh nhận chân được Phật Tri Kiến của mình, sống với nó mà thoát ly sinh tử khổ đau.

Giáo nghĩa trọng yếu của Kinh Pháp Hoa là chỉ bày Tri Kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sinh. Tri Kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân (vọng tâm). Lại là thể của thân tâm, thường trụ không sinh không diệt. Bất luận là hàng nam nữ xuất gia thiện chí hay hàng phàm nhân tại gia, cho đến kẻ tạo tội ngũ nghịch như Đề Bà Đạt Đa và những chúng sinh khác như loài rồng… cũng đều có Tri Kiến Phật. Nếu biết và tin nơi mình có Tri Kiến Phật liền khởi nhân tu hành thì sẽ được thành tựu quả Phật. Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh thuộc hệ thống kinh điển Đại Thừa, gồm hai mươi tám phẩm chuyển tải những ý nghĩa thâm sâu huyền diệu, qua đó dạy cho con người có một cuộc sống đúng theo chân lý, không bị điên đảo vì ảo tưởng khi sống trong cõi sa bà này. Bằng những lời dạy của Đức Phật cho chúng sinh về thân, khẩu, ý làm sao để được an lạc hạnh phúc trong đời sống hằng ngày qua phẩm thứ 14 trong Kinh Pháp Hoa. Đằng sau những lời dạy ấy hàm chứa những nội dung sâu sắc. Chính vì lý do ấy người viết chọn đề tài “Tìm hiểu Hạnh Phúc qua phẩm An Lạc Hạnh trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa để nghiên cứu.

  1. Lịch sử đề tài nghiên cứu

An Lạc Hạnh là pháp được Đức Phật chỉ dạy các hàng Bồ tát trong đời vị lai muốn truyền bá kinh Pháp Hoa thì phải như thế nào nằm trong phẩm thứ 14 của Kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa là bộ kinh lớn thuộc kinh điển Đại Thừa nên rất được chư tôn đức tiền bối, hiện tại, cũng như các thức giả quan tâm nghiên cứu và chú giải. Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh rất đặc biệt, vừa cao sâu nhưng lại rất phổ thông, nên không những được các nhà nghiên cứu Phật học giảng giải mà quảng đại quần chúng đều đọc tụng thụ trì.

Nhưng có lẽ tìm hiểu về Hạnh Phúc là chưa được đề cập riêng biệt bởi vì nó là một phẩm trong kinh Pháp Hoa và cũng là pháp tu của Bồ tát, thế nhưng yếu tố Hạnh Phúc hay nói khác hơn là An Lạc hạnh là yếu tố mang tính chất thời đại đối với cả Tăng và tục, nó ẩn chứa nhiều ý nghĩa và được đề cập trong quá trình nghiên cứu và chú giải của các Dịch giả. Vì vậy trong bài viết này người viết chỉ mong tiếp nối cái sở học của những người đi trước.

  1. Ý nghĩa và nhiệm vụ đề tài

Tìm hiểu về Hạnh An Lạc như đã nói ở trên, là một pháp mà Đức Phật dạy cho hàng Đại thừa Bồ tát về đời sau muốn truyền bá kinh Pháp Hoa này thì phải như thế nào? Thế nhưng với đề tài mà người viết thực hiện là muốn làm sáng lên yếu tố Hạnh Phúc mà theo quan điểm của Đức Phật qua phẩm thứ mười bốn này, thế nào để có được hạnh phúc an lạc thực sự, khi trong cuộc sống con người hay bị bấp bênh điên đảo chạy theo những vọng tưởng mê lầm, tưởng rằng đó là hạnh phúc. Mong cầu hạnh phúc nhưng bỏ hình bắt bóng thì hạnh phúc luôn xa vời. Do đó mà người viết đề cập đến nội dung này để góp thêm phần sinh động của Phật Pháp trong thời đại ngày nay với cái tên mới mẻ hơn.

  1. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu

Hạnh Phúc là pháp mà Đức Phật dạy cho chúng ta trong hầu hết các kinh điển, yếu tố này bao la rộng lớn và có nhiều phương diện khác nhau, cung bậc khác nhau mà tùy căn cơ mỗi người cảm nhận được. Bộ Kinh Pháp Hoa cũng vậy, nó bao hàm rộng lớn, trong từng phẩm đều thấp thoáng yếu tố để làm lợi ích cho chúng sinh hay nói khác hơn đó chính là an lạc vậy. Với sự bao la rộng lớn như thế, người viết chỉ đề cập nghiên cứu về pháp Hạnh Phúc trong một Phẩm “An Lạc Hạnh của kinh Diệu Pháp Liên Hoa là chủ yếu.

Đối tượng nghiên cứu đó là: “Tìm Hiểu Về Hạnh Phúc Qua Phẩm An Lạc Hạnh Trong Kinh Pháp Hoa”

  1. Phương pháp nghiên cứu

Kinh văn là những lời dạy thâm thúy, tinh túy của chư Phật chư Tổ, do đó trong bài viết này người viết đã tham khảo từ những bậc tôn túc, đồng thời sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, trích dẫn để làm sáng tỏ đề tài.

  1. Kết cấu luận án

Luận Án này có ba phần chính là

Phần A: Mở Đầu,

Phần B: Nội Dung

Phần C: Kết Luận

Đặc biệt là trong phần Nội dung bao gồm 3 chương

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

1.1. Thời gian, bối cảnh ra đời và sự hình thành kinh Pháp Hoa

1.2. Đặc điểm ngôn từ, cấu trúc và nội dung kinh Pháp Hoa

1.3. Vị trí vai trò của Kinh Pháp Hoa trong hệ thống kinh điển

1.4. Lịch sử phiên dịch và truyền bá kinh Pháp Hoa

1.5. Năm tầng huyền nghĩa kinh Pháp Hoa

CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VỀ PHẨM AN LẠC HẠNH TRONG

KINH PHÁP HOA

2.1. Nhân duyên Phật thuyết phẩm An Lạc Hạnh

2.2. Nội dung phẩm An Lạc Hạnh

2.3. Các yếu tố đem lại Hạnh Phúc trong An Lạc Hạnh

CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA HẠNH PHÚC QUA

AN LẠC HẠNH

3.1. Hạnh phúc là mong cầu của toàn nhân loại

3.2. Hạnh An lạc là pháp tu đưa đến Hạnh Phúc

3.3. Hạnh An Lạc đem lại sức sống cho nhân loại

3.4. Hạnh An Lạc đưa chúng sinh vượt thoát khổ đau chứng nhập Niết Bàn.

 B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

1.1. Thời gian, bối cảnh ra đời và sự hình thành kinh Pháp Hoa

1.1.1. Thời gian ra đời của Kinh Pháp Hoa

Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là một trong hai mươi Thánh thư phương Đông. Sự nghiên cứu về mặt lịch sử ra đời, cũng như khái quát về bố cục nội dung kinh là điều cần thiết cho việc học tập, nghiên cứu kinh Pháp Hoa.

Theo các tài liệu về lịch sử Phật giáo hiện đại như cuốn: Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận” của Kimura – Taiken, cũng như một số tài liệu khác thì Phật giáo Đại thừa xuất hiện tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ I BC cho đến thế kỷ thứ II AD tức là vào khoảng 500 năm sau khi Phật nhập diệt. Đại thừa Phật giáo phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ thứ II AD trở đi, sự phát triển Phật giáo Đại thừa là tất yếu để đáp ứng nhu cầu thời đại. Trước Pháp Hoa, các kinh điển Đại thừa khác đã xuất hiện khá phong phú như kinh Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy Ma Cật…vv. Kinh Pháp Hoa xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ II AD, bằng chứng của sự xuất hiện là vào thời điểm này có Bồ tát Long Thụ, tác giả của bộ Đại Trí Độ Luận, sống vào cuối thế kỷ thứ II AD, đã trích dẫn Kinh Pháp Hoa. Sự xuất hiện Kinh Pháp Hoa là sự tổng hòa, dung hợp tư tưởng Đại thừa của các bộ kinh trên.

1.1.2. Bối cảnh ra đời của Kinh Pháp Hoa

Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm, do những quan điểm, giải thích giáo lý, giới luật có sự khác biệt giữa các nhóm, các phái, và giữa các vùng khác nhau cho nên giáo đoàn bắt đầu phân phái. Tổng cộng có đến 20 bộ phái.

Tăng đoàn của mỗi phái cố gắng thiết lập cho mình về mặt căn cứ địa, về mặt địa lý cũng như về mặt tư tưởng để củng cố học thuyết và bộ phái của mình. Đường lối sinh hoạt và tu tập của chư Tăng ngày càng cách biệt với quần chúng và quần chúng cũng không biết theo ai. Sinh khí của giáo lý thực tiễn cứu khổ ban đầu bị xói mòn, khô cứng, dần dần đi vào tự biện triết học. Phật giáo Ấn Độ trong tình trạng như vậy bị co cụm với những lý thuyết khô khan.

Trong khi đó triết lý Bà La Môn đang có triều hướng phát triển và tranh chấp ảnh hưởng với Phật giáo, nhu cầu phát triển đổi mới, tạo tác dụng thực tiễn của giáo lý vào đời sống xã hội là một nhu cầu cần thiết.

Trong bối cảnh ấy, Phật giáo Đại thừa xuất hiện, những người Phật tử trí thức và đầy tâm huyết, muốn thấy Phật giáo có sự sinh động và có tác dụng tích cực như thời Đức Phật, họ đứng lên khởi xướng phong trào mới là Đại thừa (Mahayana), tức cỗ xe lớn chứa được nhiều người đến nơi Phật quả. Phật giáo truyền thống được coi là Tiểu thừa tức cỗ xe nhỏ, ích kỷ, chỉ thành tựu A-la-hán quả.

Sự va chạm giữa Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa đã xảy ra một cách mạnh mẽ, đến độ không ai chấp nhận ai. Nhưng kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện phát dương lý tưởng Đại thừa, giải thích giáo lý mang tính tích cực và đại chúng hơn. Bát Nhã là bộ kinh lớn xuất hiện khá sớm, triển khai tư tưởng Chân không, tích cực đả phá Tiểu thừa, cho rằng Thanh Văn và Duyên Giác không phải là con của Phật, kinh Hoa Nghiêm chủ chương pháp giới duyên khởi, nhưng vẫn coi Tiểu thừa là thấp kém hạ liệt. Đến Duy Ma Cật thì Tiểu thừa bị chỉ trích thậm tệ. Sự đả phá, chỉ trích lẫn nhau đã dẫn đến không chấp nhận nhau làm cho Phật giáo suy yếu. Nhu cầu về con đường hòa giải trở lên cấp thiết, xu hướng phê phán sự xung đột và mâu thuẫn trong Phật giáo ngày càng mạnh, tạo áp lực nhất định vào tâm tư của thời đại.

Trong bối cảnh đó, Kinh Pháp Hoa xuất hiện chủ chương hòa giải mọi mâu thuẫn gay gắt của các dòng tư tưởng của Phật giáo Đại thừa trước đó đối với giáo lý truyền thống tạo sự thống nhất về tư tưởng cốt tủy của kinh Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy Ma, đồng thời mở ra chân trời mới cho mọi con người trong xã hội: Mọi người đều có Phật tính và đều có khả năng thành Phật.

1.1.3. Sự hình thành kinh Pháp Hoa

Thể loại văn học của kinh điển Phật giáo có 12 thể loại khác nhau như Trường Hàng, Trùng tụng, Cô khởi…vv. Trong kinh Pháp Hoa có đồng thời nhiều thể loại khác nhau, sự hình thành của kinh Pháp Hoa trải qua bốn giai đoạn.

– Giai đoạn thứ nhất: Hình thành phần Trùng tụng. Trùng tụng tức là bài kệ tụng ở trong kinh. Khi đọc kinh Pháp Hoa, phần trùng tụng tức là bài thi kệ lập lại những ý đã được nói trong phần trường hàng.

Khi mới xuất hiện, kinh điển thường được viết bằng thi kệ mà không viết bằng văn xuôi, bởi hình thức kệ tụng truyền miệng dễ học thuộc hơn. Do đó với kinh Pháp Hoa, những phần trùng tụng xuất hiện trước và đó là giai đoạn đầu kinh Pháp Hoa xuất hiện.

– Giai đoạn thứ hai: Hình thành phần Trường hàng. Trong giai đoạn thứ hai của sự hình thành kinh Pháp Hoa, người ta thêm vào văn xuôi, tức là phần trường hàng, với mục đích làm cho những trùng tụng rõ nghĩa hơn lên.

– Giai đoạn thứ ba: Phát triển thêm phần Trường hàng. Giai đoạn thứ ba của sự hình thành Pháp Hoa là sự phát triển thêm phần trường hàng, tức là phần văn xuôi. Tại vì khi các học giả so các bản tiếng Phạn với nhau, thấy có những bản trong đó phần trường hàng ngắn hơn phần trường hàng của những bản khác.

– Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn kinh được thêm vào những phẩm mới.

1.2. Đặc điểm ngôn từ – cấu trúc và nội dung kinh Pháp Hoa

1.2.1. Đặc điểm ngôn từ và cấu trúc kinh Pháp Hoa

Ngôn ngữ của con người chỉ biểu đạt được những thứ bình thường trong cuộc sống, có ý nghĩa tương đối, mang tính cách phiến diện. Trong khi đó chân lý thì toàn diện và siêu việt, có ý nghĩa tuyệt đối. Cho nên dù sử dụng ngôn ngữ tinh xảo bao nhiêu cũng không thể chuyển tải hết sự thật của chân lý.

Để biểu đạt, chuyển tải chân lý cho người nghe dễ hiểu, dễ lĩnh ngộ, kinh Pháp Hoa sử dụng phương pháp truyền đạt chân lý cao siêu qua những thứ bình thường, thông dụng trong thế giới tương đối, gần gũi với đời sống con người.

Ngôn ngữ kinh Pháp Hoa sử dụng để diễn đạt mục tiêu không phải là sự kiện bên ngoài mà chính là sự thật chứa ở bên trong. Đó là ngôn ngữ mang tính biểu tượng, nói cách khác, ngôn ngữ kinh Pháp Hoa là ngôn ngữ biểu tượng.

Bố cục của kinh Pháp Hoa được trình bày theo hình thức chương hồi. Toàn kinh có 7 quyển và 28 phẩm: 1. Phẩm Tựa; 2. Phẩm Phương Tiện; 3. Phẩm Thí Dụ; 4. Phẩm Tín Giải; 5. Phẩm Dược Thảo Dụ; 6. Phẩm Thụ Ký; 7. Phẩm Hóa Thành Dụ; 8. Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thụ Ký; 9. Phẩm Học Vô Học Thụ Ký; 10. Phẩm Pháp Sư; 11. Phẩm Hiện Bảo Tháp; 12. Phẩm Đề Bà Đạt Đa; 13. Phẩm Trì; 14. Phẩm An Lạc Hạnh; 15. Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất; 16. Phẩm Như Lai Thọ Lượng; 17. Phẩm Phân Biệt Công Đức; 18. Phẩm Tùy Hỉ Công Đức; 19. Phẩm Công Đức Pháp Sư; 20. Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát; 21. Phẩm Như Lai Thần Lực; 22. Phẩm Chúc Lụy; 23. Phẩm Dược Vương Bồ Tát; 24. Phẩm Diệu Âm Bồ Tát; 25. Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát; 26. Phẩm Đà La Ni; 27. Phẩm Diệu Trang Nghiêm Bản Sự; 28. Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát.

1.2.2. Nội dung kinh Pháp Hoa

Thông thường kinh Pháp Hoa được giới thiệu qua hai hình thức:

– Giới thiệu kinh qua chủ đề “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”: Phẩm Tựa trình bày tổng quát hiện tượng về bản thể của vũ trụ pháp giới. Từ phẩm 2 đến phẩm 10 là khai Phật tri kiến. Phẩm 11 là thị Phật tri kiến. Từ phẩm 12 đến phẩm 22 là ngộ Phật tri kiến. Từ phẩm 23 đến phẩm 28 là nhập Phật tri kiến.

– Giới thiệu kinh qua Tích môn và Bản môn của tông Thiên Thai: Kinh Pháp Hoa chia làm 2 phần: 14 phẩm đầu thuộc Tích môn, 14 phẩm sau thuộc Bản môn.

+ Phần Tích môn: Tích môn là phần giáo lý nói về dấu tích của Đức Phật có sinh ra, lớn lên, xuất gia, thành đạo, nhập diệt, dạy giáo lý thoát khổ ở cõi thế gian này. Trong kinh, phần nào thuyết pháp ở núi Linh Thứu thì thuộc về Tích môn, còn gọi là chân lý tương đối.

+ Phần Bản môn: Bản môn là phần gốc, là nền tảng của Tích môn. Nghĩa là Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Phật hiện hữu suốt chiều dài của thời gian và phổ biến cả không gian. Chân lý của Bản môn là tuyệt đối. Nhờ giáo lý Bản môn mà lý giải tất cả chúng sinh đều thành Phật, vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Đây là điểm đặc thù của Pháp Hoa.

1.3. Vị trí – vai trò của kinh Pháp Hoa trong hệ thống kinh điển

1.3.1. Vị trí kinh Pháp Hoa

Khi nghiên cứu về bất cứ bộ kinh nào, đầu tiên là xác định xem bộ kinh đó có vị trí như thế nào trong hệ thống giáo lý nói chung, kinh tạng nói riêng. Phán định về giáo lý, tông Thiên Thai đem giáo lý nói trong một thời của Đức Phật phân chia thành Ngũ thời, Bát giáo.

– Ngũ thời

+ Thời Hoa Nghiêm: sau khi thành đạo, bộ kinh Phật thuyết đầu tiên là “Kinh Hoa Nghiêm” trong 21 ngày. Bộ “Kinh Hoa Nghiêm” có 3 quyển Thượng, Trung và Hạ. Theo truyền thuyết, trên nhân gian chúng ta chỉ có quyển Hạ; quyển Thượng và Trung đều được lưu giữ dưới Long cung. Bồ tát Long Thụ sau khi học hết những văn tự ở nhân gian, Ngài đi đến Long cung đọc tụng tạng Kinh; quyển Hạ này do Bồ tát học thuộc dưới Long cung mà viết ra. Bồ tát Long Thụ có biệt tài xem qua liền thuộc, cho nên Ngài đến Long cung  xem qua một lượt bộ “Kinh Hoa Nghiêm” và truyền quyển Hạ này lên nhân gian.

+ Thời A Hàm: Thứ hai là “Thời A Hàm”. A Hàm là tiếng Phạn dịch nghĩa “Vô tỉ pháp”, không có pháp nào lại có thể bì với pháp này. Tức là tất cả các pháp của ngoại đạo đều không thể sánh với “A Hàm”, “A Hàm” cao hơn hết thảy pháp của ngoại đạo. Những điều Phật tuyên nói trong thời A Hàm đều có liên quan đến giáo lý trong tam tạng “Kinh, Luật, Luận”, nói pháp “Nhân duyên, Tứ đế” có sinh có diệt, cho nên  thời A Hàm thuộc về “Tam tạng giáo” còn gọi là “Tạng giáo”.

+ Thời Phương Đẳng: Thứ ba là “Thời Phương Đẳng”. “Phương” là bốn phương, “đẳng” là bình đẳng. Trong Hóa pháp, thời Phương Đẳng thuộc về Thông giáo? Vì nó “Thông tiền thông hậu, thông đại thông tiểu”, đã thông Tạng giáo của Tiểu thừa ở trước, lại thông Biệt giáo của Đại thừa ở sau; cũng chính là thông “A Hàm” ở trước, lại thông cả “Bát Nhã” ở sau. Thông giáo là cửa đầu tiên đến với Đại thừa; “Phương Đẳng” này thuộc về Thông giáo, thông cả Tam thừa cùng học.

+ Thời Bát Nhã: Thời thứ tư là thời “Bát Nhã”. Bát Nhã thuộc về giáo nào trong Bát giáo? Trong Hóa pháp, Bát Nhã thuộc về Biệt giáo. Biệt giáo là cửa đầu tiên đến với Đại thừa. Vì sao gọi là “Biệt giáo”? Vì Bát Nhã “Biệt tiền biệt hậu”, sai biệt với “A Hàm” và “Phương Đẳng” ở trước, lại khác luôn “Pháp Hoa”“Niết Bàn” ở sau. Bát Nhã lại “Biệt tiểu biệt đại”, sai biệt với “Tạng giáo”“Thông giáo” ở trước và “Viên giáo” ở sau, nên gọi là “Biệt”. Biệt giáo là điểm kết của Đại thừa, cũng chính là lúc phải “Chuyển giáo phú tài”. “Chuyển giáo” là chuyển đổi quyền giáo của Tam thừa; “phú tài” là chuẩn bị nói một Phật thừa viên mãn của Pháp Hoa.

Bát Nhã đầy đủ ba nghĩa: Văn tự Bát Nhã, Quán chiếu Bát Nhã, Thật tướng Bát Nhã.

Văn tự Bát Nhã: Tất cả mọi Kinh, Luật, Luận đều thuộc về Văn tự Bát Nhã. Đây là văn tự xuất thế gian, chẳng phải văn tự thế gian; văn tự thế gian không diễn đạt được Bát Nhã, chỉ nói được trí tuệ thế gian.

Quán chiếu Bát Nhã: Quán là quán tưởng, Chiếu là chiếu sáng. Quán  tưởng đồng thời dùng trí tuệ quán chiếu tất cả pháp, như “Tâm Kinh” nói: “Bồ Tát Quán Tự Tại, khi thực hành chuyên sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, chiếu thấy năm uẩn đều không”, chính là chữ “Chiếu” này – quán chiếu; dùng trí tuệ để quán chiếu lý thật tướng. Quý vị hãy dùng trí tuệ của mình để quán chiếu lý thật tướng. Quý vị hãy dùng trí tuệ của mình để quán chiếu loại Bát Nhã này nhé!

Thật tướng Bát Nhã: Thật tướng là gì? “Cái gọi là thật tướng, chính là vô tướng vậy”, xưa nay vốn không có tướng, nhưng lại đầy đủ tất cả tướng, hàm nhiếp tất cả tướng; tất cả tướng đều lưu xuất từ vô tướng, đó chính là “Thật tướng” Bát Nhã. Dùng Văn tự Bát nhã làm cơ sở cho Quán chiếu Bát Nhã, là tự tướng vốn có bên trong của tất cả mọi người. Đây gọi là “Bát Nhã”.

+ Thời Pháp Hoa và Niết Bàn: Thứ năm là “Thời Pháp Hoa và Niết Bàn”. Pháp Hoa chính là bộ kinh Pháp Hoa hiện chúng ta đang học. Phật nói bộ Kinh Pháp Hoa trong suốt 8 năm, nói Niết Bàn trong vòng một ngày một đêm, nên nói “Pháp Hoa, Niết Bàn chung tám năm”. Kinh Pháp Hoa nói lên lý rốt ráo, là pháp môn cứu kính.

Đức Phật trước nói Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã đều vì dọn sẵn đường để nói Kinh Pháp Hoa, nên bộ kinh này được gọi là “Khai quyền hiển thật” (mở ra phương tiện để hiển bày lý chân thật). Kinh Pháp Hoa là chân tâm, chân thân, Pháp thân, đồng thời cũng là Ứng thân, Báo thân Phật. Cho nên những người nghiên cứu Phật pháp đều cho rằng kinh Pháp Hoa là một bộ kinh rốt ráo nhất trong các bộ kinh. Trong Phật giáo thường nói:

“Khai tuệ đích Lăng Nghiêm

Thành Phật đích Pháp Hoa”.

Tức là bộ kinh để khai mở trí tuệ chính là “Kinh Lăng Nghiêm”; còn muốn thành Phật, nhất định phải học “Kinh Pháp Hoa”. Cho nên kinh Pháp Hoa có vị trí quan trọng nhất trong hệ thống giáo lý Phật giáo.

– Bát giáo: Tông Thiên Thai lại phân định giáo lý thành Tám giáo. Trong tám giáo chia thành bốn Giáo Hóa Pháp và bốn Giáo Hóa Nghi. Bốn Giáo Hóa Pháp và bốn Giáo Hóa Nghi cũng giống như phương thuốc và vị thuốc; Bốn giáo Hóa Nghi là cách thức, cách làm của Phật khi giáo hóa chúng sinh, giống như bác sĩ cho toa thuốc. Bốn giáo Hóa pháp là pháp môn giáo hóa chúng sinh, giống như vị thuốc được uống.

+ Bốn giáo Hóa pháp: Đó là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo:

Tạng giáo: Chính là giảng về tam tạng “Kinh, Luật, Luận”, nói pháp “Nhân Duyên, Tứ Đế”, chủ yếu dạy cho hàng Nhị thừa, thứ đến dạy Bồ tát.

Thông giáo: Là điểm khởi đầu của Đại thừa, nói về “Tứ Chân Đế”“Lục Độ” không sinh diệt, thông cả Tam thừa cùng học, là pháp Tam thừa cùng tu, lấy Bồ tát Thông giáo làm đối tượng chính, nhị thừa làm đối tượng phụ.

Biệt giáo: Là điểm kết của Đại thừa, dùng pháp Đại thừa vô thượng nói pháp môn Bát Nhã “Nhất thiết pháp không” để dạy Bồ tát Biệt giáo.

Viên giáo: Thuần viên độc diệu, nói “Trung đạo thật tướng” sự lý viên dung, chỉ một Phật thừa không xen tạp ba giáo trước. Viên giáo lại chia làm 2 loại: “Đồng viên và Biệt viên”. Một thừa pháp chung căn cơ cho cả Tam thừa, gọi là “Đồng viên”, như “Kinh Pháp Hoa”, chủ yếu dạy cho Bồ tát lợi căn tối thượng, kế dạy cho bậc Thánh tam thừa. Một thừa pháp hoàn toàn khác với căn cơ Tam thừa, chỉ dành riêng cho bậc đại căn viên đốn, gọi là “Biệt viên”, như “Kinh Hoa Nghiêm”, lấy Bồ tát lợi căn tối thượng làm đối tượng.

+ Bốn giáo Hóa Nghi: Đó là Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí mật giáo và Bất định giáo:

Đốn giáo: Vì sao gọi là Đốn? Viên giáo chính là giáo viên dung tối thượng, nếu như thêm “Đốn” sẽ lập tức thành Phật, không cần chờ đợi, tức khắc thành Phật. Chữ “Đốn” là lập tức, hốt nhiên, hốt nhiên khai ngộ.

Tiệm giáo: Tiệm là tu hành từng bước, khai ngộ từ từ. Ba giáo A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã ở trước kinh Pháp Hoa đều thuộc Tiệm giáo.

Bí Mật giáo: Bí mật giáo Bí Mật Phật thuyết. Giáo Bí Mật là gì? Là những phần chú đã được tuyên thuyết. Tất cả các thần chú này đều gọi là “Bí Mật”. Bí Mật là “Vị bi thuyết nhi thử bất tri, vị thử thuyết nhi bi bất trí”; dạy pháp cho người kia, người này không biết; dạy pháp cho người này, người kia cũng không biết, không biết lẫn nhau.

Bất định giáo: Là thuyết không có nhất định, như nói: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải bỏ huống gì chẳng phải Pháp). Pháp luôn luôn hoạt động, nên không nhất định.

Tóm lại, trong hệ thống Kinh Tạng Phật giáo thì Kinh Pháp Hoa có vị trí cao nhất, điều này thể hiện trong kinh Pháp Hoa. Đức Phật dạy Bồ tát Tú Vương Hoa rằng: “Này Tú Vương Hoa, trong các dòng nước như là sông, ngòi, kênh, rạch thì biển là lớn nhất; trong các kinh thì Kinh Pháp Hoa này là lớn nhất”.

1.3.2. Vai trò của Kinh Pháp Hoa

Một đặc điểm khác đã đưa kinh Pháp Hoa lên ngôi vị trí cao nhất trong hệ thống kinh điển Đại Thừa là cái khả năng dung hợp, chấp nhận mọi bộ phái trong đạo Phật.

Đạo Phật có nhiều bộ phái khác nhau, khi Đại thừa Phật giáo xuất hiện thường chỉ trích Phật giáo Tiểu thừa. Những người theo Đại thừa chê những người theo Tiểu thừa là “Tiêu nha bại chủng”. Tức những người theo Tiểu thừa là những người tiếp nhận hạt giống từ bi, trí tuệ, giải thoát, an lạc từ Phật Pháp, mà không gieo trồng và phát triển để những hạt giống này trở thành những gì tốt đẹp cho nhân loại, thì họ chỉ làm cho hỏng những hạt giống của Phật Pháp.

Kinh Pháp Hoa ra đời đóng vai trò quan trọng trong công cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các trường phái Phật giáo. Mặt khác đặt lại giá trị của mọi đường lối tu tập và nhất là giá trị tâm thức hướng thiện, hướng thượng của mọi chúng sinh. Sự tồn tại của Đức Phật là vĩnh cửu, mọi hiện tượng dưới con mắt người giác ngộ đều là biểu hiện chân lý. Ý tưởng này đã làm nền tảng cho tư tưởng Đại thừa và con đường thực hành Bồ-tát hạnh.

Với một đường lối dung hòa, với tư tưởng phóng khoáng siêu thoát, kinh Pháp Hoa đã đạt được mục đích của mình mà khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Có lẽ cũng vì vậy mà kinh được tôn thờ quý kính, hành trì và phổ biến một cách sâu rộng. Vì vậy cho nên vai trò của Kinh Pháp Hoa rất lớn trong truyền thống Phật giáo Đại thừa.

1.4. Lịch sử phiên dịch và truyền bá Kinh Pháp Hoa.

Kinh Pháp Hoa được phiên dịch từ tiếng Phạn ra nhiều thứ tiếng như tiếng Hán, tiếng Tây Tạng, tiếng Anh tiếng Nhật, tiếng Việt…vv.

Sự nghiệp nghiên cứu và lưu truyền kinh Pháp Hoa rất sâu rộng, ở Ấn Độ , Bồ tát Long Thụ khi trước tác Đại Trí Độ Luận đã dẫn chứng Kinh Pháp Hoa và Ngài có một tác phẩm giải thích Pháp Hoa và Pháp Hoa Thích Luận. Ngài Thế Thân, một luận sư nổi tiếng có lược dịch và giải thích Pháp Hoa qua bộ Pháp Hoa luận. Ở Trung Hoa, những bản chú giải, sớ giải về Pháp Hoa của các nhà nghiên cứu Phật học qua các thời đại rất nhiều, nổi bật là Trí Giả Đại Sư, căn cứ vào kinh Pháp Hoa để thành lập nên tông Thiên Thai, đồng thời trước tác các tác phẩm nổi tiếng như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú…vv.

1.4.1. Tại Trung Quốc

+ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh – 7 quyển, do ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) đời Diêu Tần dịch năm Hoằng Thủy thứ 4 (402 AD).

+ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh – 8 quyển cũng do Ngài Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch năm Hoằng Thủy thứ 8 (406 AD).

+ Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, do Ngài Trí Giả Đại Sư đời Tuỳ năm 538 AD.

+ Pháp Hoa Tam Muội Kinh – 6 quyển, do Ngài Chi Cương Lương Tiếp (Kalasivi) đời Ngô dịch năm 255 AD.

+ Tất Đàm Phần Đà Lị Kinh – 6 quyển, do ngài Pháp Hộ (Dharmaraksaq) đời Tây Tấn dịch khoảng năm 256 AD

+ Tất Đàm Phần Đà Lị kinh – 6 quyển do Ngài Đàm Ma La Sát dịch vào niên hiệu Thái Thủy thứ nhất đời Tấn Vũ Đế.

+ Chính Pháp Hoa Kinh – 10 quyển, cũng do ngài Pháp Hộ dịch năm 286 AD vào thời Tây Tấn.

+ Thêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh – 7 quyển, do ngài Xà Na Hốt Đa và Ngài Đạt Ma Cấp Đa cùng nhau dịch ở năm 601 AD đời Tùy.

Ngoài ra một số bản dịch khác vẫn được ghi lại trong Thư Mục Trung Quốc, nhưng không thấy lưu truyền. Trong những bản dịch vừa kể trên, bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập thì được phổ cập nhất.

1.4.2. Tại Việt Nam

Sự nghiệp phiên dịch kinh luận của người Việt Nam cũng được phát triển rất sớm và rất mạnh vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. Lịch sử dịch kinh Pháp Hoa của người Việt Nam có thể chia làm 3 thời kỳ khác nhau: thời kỳ chữ Hán, thời kỳ chữ Nôm và thời kỳ chữ Quốc Ngữ.

+ Thời kỳ chữ Hán: Đạo tràng phiên dịch kinh điển Phật giáo ở Giao Châu đã được thành lập sớm nhất vào thời Hậu Hán, gọi là trung tâm Luy Lâu. Tại trung tâm Luy Lâu, một bộ kinh Pháp Hoa gồm 6 quyển được dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào năm 256 AD và từ đó đạo tràng Giao Châu càng thêm sáng chói trên văn đàn Trung Quốc. Tiếp theo đó một số tu sĩ Việt Nam được Trung Quốc mời vào cộng đồng phiên dịch tại Trường An (theo tài liệu trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh).

+ Thời kỳ chữ Nôm: Các nhà sư Việt Nam rất tinh thông Hán học và cũng rất giàu lòng yêu nước, yêu văn hóa dân tộc. Với tinh thần độc lập tự chủ sẵn có, các nhà sư này muốn thoát ly ảnh hưởng văn hóa Bắc thuộc, liền sử dụng ký hiệu Quốc Âm để chuyển ngữ kinh Phật thành ra chữ Nôm. Hiện nay nhiều tài liệu Phật giáo bằng ảnh hưởng Quốc Âm (chữ Nôm) vừa mới tìm thấy ở miền Bắc Việt Nam được xem là những tác phẩm sớm nhất. Bộ Quốc Dịch Pháp Hoa Kinh bằng chữ Nôm hiện còn giữ tại Đông Dương Văn Khố Tokyo đã nói lên tinh thần sáng tạo và độc lập tự chủ của tiền nhân.

+ Thời kỳ Quốc Ngữ: Người đầu tiên biên soạn thành bộ kinh Pháp Hoa bằng Việt Ngữ chính là cư sĩ Đoàn Trung Còn. Vào năm 1973, cư sĩ Đoàn Trung Còn dựa theo hai bản dịch của chữ Hán để biên soạn gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Mười năm sau Hòa thượng Thích Trí Tịnh căn cứ vào bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh bằng chữ Hán của ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Việt Ngữ để giúp cho các giới Phật tử tiện việc trì tụng và nghiên cứu. Đến nay thì có rất nhiều bản dịch tiếng Việt kinh Pháp Hoa khác nữa như bản dịch của Hòa thượng Tuệ hải, Hòa thượng Trí Quang..vv.

Vào thế kỷ thứ XIX, Pháp Liên Đà “Giải Âm” Bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh do Cưu Ma La Thập dịch, gọi là Pháp Liên Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh vào năm 1848 và in lần đầu vào năm 1856 tác giả Lê Mạnh Thát – Tủ Thư Vạn Hạnh xuất bản năm 1989. Đây là bản giải âm với 3214 câu thơ viết bằng thể lục bát là loại hình văn học dân tộc dịch giải hay nói cách khác đó là loại hình kinh thơ tiếng Việt rất đáng làm đối tượng để nghiên cứu và học tập.

1.5. Năm tầng huyền nghĩa kinh Pháp Hoa.

1.5.1. Thích Danh

* Phương pháp lập đề

Trong năm tầng huyền nghĩa, đầu tiên là Thích danh, tức là giải thích tên kinh, đó là huyền nghĩa thứ nhất. Trước khi giải thích bất cứ một bài kinh nào, phải tìm hiểu phương pháp lập đề của bộ kinh đó là gì. Thông thường có bảy phương pháp lập đề như sau:

+ Đơn Nhân Lập Đề: Lấy riêng tên người để lập đề, như kinh Phật thuyết A Di Đà.

+ Đơn Pháp Lập Đề: Lấy riêng tên Pháp để lập đề, như kinh Niết Bàn. Niết Bàn vốn là một pháp; Niết nghĩa là bất sinh, Bàn nghĩa là bất diệt. Niết Bàn là pháp không sinh không diệt.

+ Đơn Dụ Lập Đề: Lấy riêng Dụ để lập đề, như kinh Phạm Võng lấy ví dụ để đặt thành tên kinh.

+ Nhân Pháp Lập Đề: Phối hợp Nhân và Pháp để lập đề. Ví như kinh Văn Thù Vấn Bát Nhã. Bồ tát Văn Thù là người, Bát Nhã là pháp.

+ Nhân Dụ Lập Đề: Phối hợp Nhân và Dụ để lập đề. Ví dụ như kinh Như Lai Sư Tử Hống Kinh. Như Lai là một trong 10 đức hiệu của Phật, Như Lai là người. Sư tử là hống là dụ.

+ Pháp Dụ Lập Đề: Phối hợp Pháp và Dụ để lập đề. Như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp là Pháp, Liên Hoa là dụ.

+Cụ Túc Nhất Đề: Phối hợp cả Nhân – Pháp và Dụ thành một đề đầy đủ. Như Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Đại Phương Quảng là pháp, Phật là nhân, Hoa Nghiêm là Dụ.

Tóm lại, kinh này lấy Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Tức là phối hợp Pháp  và Dụ để lập đề. Vì Diệu Pháp là pháp khó hiểu, khó nắm bắt nên dùng hoa sen làm ví dụ cho Diệu Pháp nhằm người nghe dễ hiểu.

Giải thích tên: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

– Giải thích từ Kinh: chữ Kinh là tên chung, tất cả pháp Phật nói đều gọi là kinh. Chữ Kinh trong đạo Phật bao hàm các ý nghĩa cơ bản là Quán – Nhiếp – Thường – Pháp.

+ Quán: tức là “xâu kết những đạo lý đã nói”, giống như dùng sợi chỉ, xỏ xuyên qua các ý nghĩa trong kinh, khiến cho đầu, giữa, cuối đều nhất quán. Như khi chúng ta viết một bài văn phải có “khai, hợp, chuyển, chiết” (mở đầu, kết hợp, chuyển ý và tóm yếu lại chủ đề).

+ Nhiếp: Nghĩa là “nhiếp trì sở hóa cơ” thâu nhiếp hết mọi căn cơ để hóa độ. Tất cả chúng sinh đều được hóa độ, người nào thích dùng vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn, trong kinh đều có đủ; ai thích tu theo pháp môn nào, trong kinh cũng không thiếu.

+ Thường: là vĩnh viễn không đổi. Những kinh điển từ khi Phật nói cho đến nay, không ai có thể sửa đổi, một chữ cũng không thêm, không bớt; không tăng, không giảm nên gọi là “Kinh”.

+ Pháp: Chính là “phương pháp”. Phương pháp trong kinh nói là phương pháp mà chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều nói. Tất cả chúng sinh trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều y chiếu theo những phương pháp đó mà tu học nên gọi là “Pháp”.

Chữ Kinh còn có rất nhiều nghĩa khác nữa. Kinh, theo tiếng Phạn là Tu-đa-la (Sutra); Trung Hoa dịch là Khế kinh. Khế tức là khế hợp, trên thì khế hợp với tâm Phật, dưới thì khế hợp với tâm chúng sinh. Cho nên Phật, chúng sinh, tâm, cả ba đều không khác biệt nhau; đây cũng chính là nghĩa chữ Kinh.

– Giải thích Diệu Pháp: Diệu là mầu nhiệm không thể nghĩ bàn; Pháp là pháp môn để đạt đến sự giác ngộ cuối cùng, vượt ra ngoài sự suy lường tính toán, đoạn tuyệt ngôn ngữ. Pháp môn mầu nhiệm này gọi là Phật tri kiến. Linh giác căn bản (bản giác), hay Chân Tâm mầu nhiệm, Bản tướng chân thường…vv.

– Giải thích từ Liên Hoa: Liên Hoa tức là hoa sen. Hoa sen tính hi hữu, siêu việt hơn các loài hoa khác ở chỗ nó sinh trưởng từ bùn lầy mà không nhiễm hôi tanh, vẫn tỏa hương thơm ngát. Hoa sen dụ cho Diệu Pháp, cho chân tâm của chúng sinh…vv. Chúng sinh tuy sống ở cõi Sa bà uế trược nhưng chân tâm mầu nhiệm thường hằng thanh tịnh. Ca dao tục ngữ Việt Nam cũng nói về hoa sen như sau:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa, hoa sen có ba dụ: Ví có sen nên có hoa; Hoa nở thì sen hiện; Hoa rụng thì sen thành.

Hoa sen sở dĩ có ba dụ là vì Diệu Pháp nhiệm màu khó giải thích, phải mượn ví dụ để cho dễ hiểu. Hoa sen là biểu tượng cho Nhân (hoa) và Quả (sen) phát sinh cùng một lúc, cũng như Diệu Pháp là thể hiện Quyền (phương tiện) và Thật (chân thật) đồng một bản thể. Vì thế Đức Phật dùng hoa sen để dụ Quyền và Thật của Diệu Pháp.

+ Vì có sen nên có hoa: gồm hai thí dụ:

Dụ thứ nhất – vì Thật nói Quyền: Thật là pháp chân thật tức là Nhất Thừa và Quyền là pháp phương tiện tức là Tam thừa. Sen ở đây là dụ cho Thật và Hoa ở đây dụ cho Quyền. Đức Phật vì pháp chân thật của Nhất Thừa mà thiết lập pháp Quyền (phương tiện) của Tam thừa. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Mặc dù chỉ bày nhiều thứ đạo, nhưng kỳ thật không ngoài Phật Thừa”.

Dụ thứ hai – Từ nơi Bản Môn hiển bày Tích Môn: Bản Môn nghĩa là chỉ cho pháp Thân căn bản của Đức Phật Thích Ca đã có từ vô thủy, đã thành Phật từ lâu xa, cũng gọi là Cổ Phật. Tích Môn nghĩa là chỉ cho hóa thân của Đức Phật Thích Ca, có dấu tích lịch sử đản sinh, xuất gia…vv. Cũng gọi là Tân Phật. Sen ở đây dụ cho Bản Môn (Cổ Phật) và Hoa ở đây dụ cho Tích Môn (Tân Phật). Pháp thân của đức Như Lai thuộc Bản Môn đã thành Phật từ lâu xa, nhưng vì muốn độ chúng sinh nên mới sinh vào nơi nước Ca Tỳ La Vệ làm Hóa Thân thuộc Tích Môn. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói: “Đúng ra ta thật sự đã thành Phật từ lâu xa, chỉ vì giáo hóa chúng sinh mà nói rằng, ta mới xuất gia và chứng đặng Tam Bồ Đề”.

+ Hoa Nở thì sen hiện. Cũng có hai ví dụ:

Dụ thứ nhất – là khai Quyền hiển Thật. Khai Quyền nghĩa là mở bày pháp phương tiện và Hiển Thật nghĩa là thể hiện pháp chân thật. Hoa nở ở đây là dụ cho Khai Quyền và Sen hiện ở đây là dụ cho Hiển Thật. Thí dụ này là biểu tượng Đức Như Lai quyền khai ba thừa để hiển bày pháp chân thật của Nhất thừa. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói: “Khai phương tiện môn để chỉ bày tướng chân thật”.

Dụ thứ hai – khai Tích hiển Bản: Khai Tích nghĩa là mở bày Hóa Thân thuộc Tân Phật và hiển Bản nghĩa là hiển bày Pháp Thân thuộc Cổ Phật. Hoa Nở ở đây là dụ cho khai mở Tích Môn và Sen Hiện ở đây là dụ cho hiển bày Bản Môn. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói: “Tất cả thế gian đều cho rằng ta nay mới đắc đạo. Ta thật sự đã thành Phật từ vô lượng vô biên na do tha kiếp cho đến nay”.

– Hoa rụng thì sen thành. Cũng có hai thí dụ:

Dụ thứ nhất – bỏ Quyền lập Thật: Bỏ Quyền nghĩa là phế bỏ pháp Phương tiện của Tam Thừa và lập Thật nghĩa là thiết lập pháp chân thật của Nhất Thừa. Hoa rụng ở đây là dụ cho bỏ Quyền và Sen thành ở đây là dụ cho lập Thật. Thí dụ này là biểu tượng đức Như Lai phế bỏ pháp Phương Tiện của ba Thừa để kiến lập pháp chân thật của Nhất Thừa. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói: “Đúng ra xả bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng”.

Dụ thứ hai – bỏ Tích lập Bản: Bỏ Tích nghĩa là phế bỏ Tân Phật thuộc Hóa Thân và lập Bản nghĩa là thiết lập Cổ Phật thuộc Pháp Thân. Hoa rụng ở đây là dụ cho bỏ Tích (Tân Phật) và Sen thành ở đây là dụ cho lập Bản (Cổ Phật). Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Các Đức Như Lai, pháp đều như thế; vì độ chúng sinh, thật sự không hư”.

Như vậy, Hoa sen biểu tượng cho nguyên lý nhân quả đồng thời.

Hoa sen có hai phần: Cánh và Nhụy của hoa thì thuộc về Nhân (hoa); Gương và Hạt thì thuộc về Quả (sen). Một đóa sen gồm có cánh nhụy và gương hạt đều thể hiện cùng một lúc gọi là nhân quả đồng thời, nghĩa là Quả không ngoài Nhân và Nhân không ngoài Quả. Quả tức là Nhân và Nhân tức là Quả. Từ ý nghĩa này người tu Diệu Pháp là tạo nhân thì Thể Tướng Chân Tâm nhất định hiển bày là quả.

Tóm lại, Liên Hoa biểu thị cho diệu pháp, Liên Hoa chính là diệu pháp, diệu pháp cũng chính là Liên Hoa. Liên Hoa là dụ cho bộ kinh này. Diệu Pháp Liên Hoa là biệt danh của bộ kinh này. Biệt nghĩa là “đặc biệt” bởi vì nó khác biệt, nó không cùng tên với các kinh điển khác của Phật.

1.5.2. Hiển Thể

Sau khi giải thích về tên kinh, Chúng ta phải làm rõ thể của bộ kinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy Thật Tướng làm thể. Trong kinh nói: “Thật Tướng vô tướng, vô sở bất tướng”. Tất cả các tướng đều do “Thật Tướng” sinh ra. Không chỉ tất cả tướng, mà tất cả chư Phật, tất cả Bồ tát, tất cả Thanh Văn, Duyên Giác cũng đều từ “Thật Tướng” sinh ra cho đến tất cả vạn sự vạn vật đều từ Thật Tướng sinh ra. Thể của bộ Kinh này, chính là “chư Pháp thật tướng”; cho nên tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, cho đến tất cả chúng sinh đều từ kinh Pháp Hoa sinh ra.

1.5.3. Minh Tông

Tên kinh đã biết, thể cũng đã nhận rõ, vậy rốt cuộc bộ kinh này lấy cái gì làm tông chỉ? Bộ kinh này lấy “Nhất Thừa nhân quả” làm tông chỉ. Ban đầu Phật nói có ba thừa, cuối cùng Đức Phật nói kinh Pháp Hoa, quy tất cả các thừa về một thừa duy nhất, đó chính là Phật thừa.

Trong kinh nói: “Duy nhất Phật Thừa, cánh vô dư thừa”. Kinh Pháp Hoa dùng hoa sen để biểu đạt cho diệu pháp là để nói lên ý nghĩa nhân quả có cùng một lúc. Bởi đối với hoa sen thì khi hoa sen nở là có hạt sen, hoa quả đồng thời. Bộ kinh này lấy “Nhất Thừa nhân quả” làm tông; nhân là “nhân Phật”, quả là “quả Phật”, nên gọi là “nhất thừa nhân quả”.

1.5.4. Luận Dụng

Dụng tức là lực dụng, tác dụng của kinh điển. Kinh Pháp Hoa lấy việc đoạn nghi sinh tín làm dụng. Khi cơ duyên của chúng sinh tròn đầy, Đức Phật dùng Đại Thừa Diệu Pháp để khai thị, trên phương Tích Môn thì khiến họ dứt hẳn cái nghi về quyền để sinh cái tin nơi xa. Tức dứt bỏ mọi nghi ngờ để tin vào Nhất Phật Thừa nên gọi Đoạn Nghi Sinh Tín làm dụng.

1.5.5. Giáo Tướng

Kinh Pháp Hoa lấy Vô Thượng Đề Hồ làm giáo tướng. Thánh nhân tỏ lòng dạy bảo gọi là giáo, phân biệt đồng dị gọi là Tướng. Sự mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa thì rất thuần nhất và tròn sáng, dung hợp tất cả Tam thừa về một Phật thừa duy nhất. Nhưng sự khác biệt của nó là biến ra từng mảng các giáo lý của kinh, cũng như dụ cho chất Đề Hồ. Cũng như Đề Hồ vậy, sữa lấy từ bò, rồi từ sữa làm ra lạc, từ lạc làm ra sinh tô, từ sinh tô làm ra thục tô, thục tô tinh luyện làm đề hồ. Đề hồ mới là tinh túy nhất làm ra từ sữa, là hơn tất cả. Cho nên gọi Vô Thượng Đề Hồ làm giáo tướng. [2,1]

CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VỀ PHẨM AN LẠC HẠNH TRONG KINH PHÁP HOA

2.1. Nhân duyên Phật thuyết phẩm An Lạc Hạnh

Lúc bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các vị Bồ Tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này. Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?”.

Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: “Nếu vị Bồ Tát ở đời sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp: [4]

Như phần kinh văn ở trên thì nhân duyên Đức Phật thuyết kinh này là do ngài Văn Thù Bồ tát thưa thỉnh Đức Phật về đời ác sau này muốn nói Kinh Pháp Hoa này phải như thế nào, ở đây Đức Phật đã dạy bằng một phẩm kinh với tên là An Lạc Hạnh. An Lạc Hạnh là hạnh an vui, ở đây dạy cách thức để an trụ trong đó, để sống mà trì kinh Pháp Hoa, khiến cho mình không ngăn ngại, gồm có bốn hạnh: Hành xứ; Thân cận xứ; Thâm tâm; Đại Bi Tâm.

Hành xứ: là chỗ thực hành, sống trong đó, thì được an lạc.
Thân cận xứ: là chỗ gần gũi như thế nào?
Thâm tâm: là tâm tin sâu vững Phật đạo không thoái chuyển.
Đại bi tâm: là có lòng từ bi lớn.

2.2. Nội dung phẩm An Lạc Hạnh

Đức Phật dạy, các vị Bồ tát trong đời ác trược muốn nói Kinh Pháp Hoa phải an trụ trong bốn pháp:

– Một là Hành xứ: Bồ tát phải luôn an trụ trong trạng thái, nhẫn nhục, nhu hòa, không nóng giận, không sợ sệt, không để hoàn cảnh chi phối, phải quán các pháp như thật tướng (chẳng chấp trước), đối với các pháp thì vô sở hành, nghĩa là chẳng thi hành những pháp thuộc về chấp trước năng và sở, chẳng thi hành những pháp thuộc phân biệt tương đối, chẳng thi hành những pháp thuộc kiến văn giác tri, đối với các pháp phải đều đạt đến chỗ vô sở đắc.

– Hai là Thân cận xứ: Bồ tát không thân cận vua quan hay những người có quyền thế, không thân cận những người tu theo ngoại đạo như văn nhân thi sĩ thế tục, những kẻ hung ác…vv. Phải quán các pháp đều không, không thật tướng, do nhân duyên điên đảo sinh ra.

– Ba là An lạc hạnh: Sau khi Như Lai diệt độ, muốn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong thời mạt pháp, Bồ tát phải trụ trong An lạc hạnh, nghĩa là chẳng khinh mạn với các Pháp Sư khác, chẳng nói thị phi, hay dở, tốt xấu của cá nhân họ, cũng không nên khen hay chê trước mặt họ.

Bồ tát muốn thuyết pháp phải giữ tâm an vui thanh tịnh, trừ bỏ ý tưởng ỷ lại, lười biếng, nói pháp để mở tâm trí cho chúng sinh mà không bao giờ mong cầu cúng dàng lợi lạc.

Người nào thụ trì, đọc tụng kinh này không nên chứa chấp oán hờn ganh tỵ, không nên khinh khi người học Phật, không làm thoái tâm người khác, không đem đạo pháp ra bàn luận chơi. Phải khởi tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh, phải sinh tâm cung kính đối với Như Lai như cha lành và đối với Bồ tát cũng phải cung kính cúng dàng như bậc thầy.

– Bốn là phát đại bi tâm: Trong thời mạt pháp, ai muốn trì tụng Kinh này phải phát tâm đại bi với hàng tại gia và xuất gia. Đối với người chưa được tin, bậc Bồ tát cũng phải khởi tâm thương xót. Họ không nghe, không hiểu, không tin kinh này là một tổn thất rất lớn. Cho nên đối với họ, ta nguyện ngày nào được Vô Thượng Bồ Đề sẽ dùng trí lực, phương tiện dẫn họ vào pháp Đại Thừa, đưa họ đến cứu kính thành Phật.

Khi Như Lai diệt độ, Bồ Tát nào thành tựu được bốn pháp này thì thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa không bao giờ sai lầm, được mọi người cung kính cúng dàng, được chư thiên hộ trì và được chư Phật ba đời chứng minh.

2.3. Các yếu tố đem lại Hạnh Phúc trong An Lạc Hạnh

2.3.1. Hạnh phúc là gì?

Thật khó có thể định nghĩa chính xác về hạnh phúc vì hạnh phúc có nhiều cung bậc khác nhau và mỗi người cũng có thể tự định nghĩa về hạnh phúc cho riêng mình.

Trên thế giới nhân loại nói chung và các tôn giáo nói riêng đều có những khái niệm về Hạnh phúc theo những cảm nhận khác nhau.

Dưới đây là các định nghĩa về hạnh phúc của các nhà triết học cổ đại:

  1. Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc, bởi hạnh phúc chính là một con đường – Gautama Buddha, năm 500 trước Công nguyên.

Phía cuối mỗi hành trình luôn là điểm đến và hạnh phúc cũng chính là mục đích cuối cùng mà chúng ta luôn theo đuổi. Không có con đường nào kết thúc bởi hạnh phúc chính là một con đường dài vô tận.

  1. Sự do dự trong tình yêu sẽ giết chết hạnh phúc thực sự – Bertrand Russell, năm 1800.

Với một người yêu toán học, khoa học và logic như Bertrand Russell thì hạnh phúc là thứ hoàn toàn có thể đo đếm được.

  1. Hạnh phúc là khi quyền lực tăng lên và bạn có thể kiểm soát mọi thứ – Friedrich Nietzsche, cuối thế kỷ XIX.

Với Nietzsche, hạnh phúc có thể kiểm soát được mọi thứ xung quanh. Nhà triết học người Đức cho rằng, khi hạnh phúc đồng nghĩa với quyền lực tăng lên, bạn có thể quyết định mọi việc trong tầm tay.

  1. Bí mật của hạnh phúc không nằm ở việc bạn tìm kiếm nó, mà là việc bạn hưởng thụ hạnh phúc như thế nào – Socrates, năm 450 trước Công nguyên.

Hạnh phúc không đến từ những yếu tố bên ngoài như phần thưởng hay sự ghi nhận, nó đến từ chính bản thân mỗi người, sự cố gắng, nỗ lực và những thành quả mà bạn tạo ra.

  1. Những người tìm kiếm hạnh phúc trên chính đôi chân của mình, chứ không phải dựa vào sự giúp đỡ của người khác, luôn là những người hạnh phúc nhất – Plato, thế kỷ IV trước Công nguyên.

Theo Plato, hạnh phúc là sự phát triển cá nhân. Đó là sự hài lòng về những thành quả mà bạn đã đạt được từ sự nỗ lực của chính bạn thân; chẳng hạn như chạy được quãng đường xa hơn, đọc được nhiều sách hơn năm ngoái…

  1. Hạnh phúc phụ thuộc vào chính bạn – Aristotle, năm 300 trước Công nguyên.

Theo nhà triết học Hy Lạp cổ đại, quan điểm về hạnh phúc không giống như chúng ta vẫn tưởng. Hạnh phúc không phải là món quà mà người khác đem đến cho bạn. Đó là thứ bạn tạo ra bằng chính đôi tay và sự nỗ lực của bản thân.

  1. Hãy học tìm kiếm hạnh phúc bằng cách giảm bớt nhu cầu chứ không phải tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu – John Stuart Mill, sinh năm 1806.

Điều quan trọng nhất của hạnh phúc đó là thay vì theo đuổi sự đầy đủ về vật chất, bạn hãy giảm bớt những nhu cầu không cần thiết và dùng mọi thứ đúng mục đích.

  1. Khi nghĩ đến những điều tốt đẹp, con người sẽ sống hạnh phúc hơn – Khổng Tử, năm 500 trước Công nguyên.

Theo nhà hiền triết Trung Quốc, hạnh phúc là sự thỏa mãn của bản thân, chứ không phải sao chép từ người khác.

  1. Hạnh phúc là khi con người muốn đạt được những thứ nằm trong tầm với của mình. Hãy mơ những gì có thể đạt được và từ bỏ những thứ ở xa tầm với – Seneca, thế kỷ IV trước Công nguyên.

Trong cuộc sống, ai cũng có những mục tiêu nhất định và cố gắng để đạt được mục tiêu đó. Do vậy, để sống hạnh phúc, bạn hãy đặt ra những mục tiêu nằm trong khả năng của mình chứ đừng “mơ mộng viển vông”.

  1. Nếu luôn cảm thấy thất vọng, tức là bạn đang sống với quá khứ. Nếu luôn lo lắng, tức là bạn đang sống với tương lai. Chỉ khi nào cảm thấy bình yên, bạn mới đang sống với hiện tại – Lão Tử, năm 600 trước Công nguyên.

Nhà hiền triết Trung Quốc cho rằng, người hạnh phúc nhất là người luôn nỗ lực đạt được thành công bằng khả năng của chính mình. Họ sống với thực tại, không lo lắng về tương lai và không nuối tiếc quá khứ.

  1. Cuộc sống không phải là những vấn đề cần giải quyết, mà là những trải nghiệm cần bạn vượt qua – Soren Kierkegaard, đầu thế kỷ 19.

Theo Kierkegaard, hạnh phúc đến từ hiện thực và cần được trải nghiệm. Nếu chúng ta dừng việc cố gắng chỉ để phân tích hoàn cảnh hay giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc.

  1. Hạnh phúc giống như một con bướm, bạn càng rượt đuổi, nó càng bay xa hơn. Nhưng nếu bạn không để ý đến nó, nó sẽ tự bay đến gần bạn – Henry David Thoreau, sinh năm 1817.

Luôn theo đuổi chủ nghĩa thực tế, nhà hiền triết này cho rằng, khi để mọi thứ diễn ra tự nhiên, hạnh phúc sẽ tự tìm đến.

Như vậy, hạnh phúc bình thường là thỏa mãn sự khao khát. Tuy nhiên, ngay khi điều mong muốn vừa được thực hiện thì chúng ta lại mong muốn một thứ hạnh phúc khác, vì lòng thèm muốn ích kỷ của chúng ta không cùng tận.

Tiền không mua được hạnh phúc, hay sự giàu có thường không mang lại hạnh phúc. Kỳ thật, hạnh phúc thực sự chỉ tìm thấy trong nội tâm chứ không nơi của cải, quyền thế, danh vọng hay chiến thắng.

Ðức Phật đã nêu lên các loại hạnh phúc cho người cư sĩ tại gia: “Hạnh phúc có sức khỏe, có của cải, sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, sức mạnh, tài sản và con cái, …v.v. Ðức Phật không khuyên chúng ta từ bỏ cuộc sống trần tục và rút lui về sống ẩn dật. Tuy nhiên, Ngài khuyên Phật tử tại gia, sự vui hưởng của cải không những nằm trong việc sử dụng cho riêng mình, mà nên đem phúc lợi cho người khác. Những cái mà chúng ta đang có chỉ là tạm bợ. Những cái mà chúng ta đang gìn giữ, rốt rồi chúng ta cũng bỏ chúng mà đi. Chỉ có những nghiệp sẽ phải theo chúng ta suốt nẻo luân hồi. Ðức Phật dạy về hạnh phúc của người cư sĩ như: sống nghèo về vật chất mà tinh thần thoải mái là hạnh phúc. Sống đời không bị chê trách là hạnh phúc, vì người không bị chê trách là phúc lành cho chính mình và cho người khác. Người đó được mọi người ngưỡng mộ và cảm thấy sung sướng hơn khi truyền cảm được làn sóng hòa bình sang người khác. Tuy nhiên, rất khó mà không bị mọi người chê trách. Vì thế người trí cao thượng nên cố sống dửng dưng với sự khen chê bên ngoài, cố đạt được hạnh phúc tinh thần bằng cách vượt qua lạc thú vật chất. Đối với người xuất gia Đức Phật dạy rằng : Hạnh phúc Niết Bàn là dạng thức hạnh phúc giải thoát khổ đau cao thượng nhất.

Những lời dạy của Đức Phật về Hạnh Phúc trong Kinh Pháp Cú:

Happy is the birth of Buddhas!

Happy is the teaching of the True Law!

Happy is the harmony in the sangha!

Happy is the discipline of the united ones!

(Dharmapada 194)

Hạnh phúc thay đức Phật ra đời! 

Hạnh phúc thay diễn nói Chánh pháp! 

Hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp! 

Hạnh phúc thay dũng tiến đồng tu! 

(Pháp Cú 194)

Oh! Happily do we live without hatred among the hateful! Among hateful men we dwell unhating! (Dharmapada 197).

— Sung sướng thay chúng ta sống không thù oán giữa những người thù oán; giữa những người thù oán, ta sống không thù oán. (Pháp cú 197)

Oh! Happily do we live in good health among the ailing! Among the ailing we dwell in good health! (Dharmapada 198). 

— Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh giữa những người tật bệnh; giữa những người tật bệnh chúng ta sống không tật bệnh. (Pháp cú 198).

Oh! Happily do we live without greed for sensual pleasures among the greedy! Among the greedy we dwell free from greed! (Dharmapada 199).

—Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục; giữa những người tham dục, chúng ta sống không tham dục. (Pháp cú 199)

Oh! Happily do we live without any hindrances. We shall always live in peace and joy as the gods of the Radiant Realm (Dharmapada 200).

— Sung sướng thay chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại. Ta thường sống với những điều an lạc như các vị thần giữa cõi trời Quang-Âm. (Pháp cú 200)

Victory breeds hatred, defeat breeds suffering; giving up both victory and defeat will lead us to a peaceful and happy life (Dharmapada 201).

— Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì bị đau khổ; chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống một đời hòa hiếu an vui và hạnh phúc. (Pháp cú 201) [1]

Hạnh phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ “tham ái, chấp trước” có nghĩa là không vướng bận bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, ở trong khổ đau vẫn thấy an vui, hạnh phúc, ở trong đời ngũ trược đầy dẫy sự đau khổ và bất công, chúng ta cũng có thể tự tại, an vui, cho dù xung quanh của ta toàn là ngũ dục, lạc thú. Chúng ta vẫn không vướng mắc đến nó cho nên thật là chí lý khi nói:

“Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau

Giải thoát là ung dung trong ràng buộc”

Chân lý hạnh phúc không chờ đợi ở kiếp sau, và cũng không cần tìm kiếm một nơi nào khác, chân lý có thể hiện hữu ngay bây giờ và ở đây. Trong tất cả mỗi người ai cũng có một nguồn hạnh phúc chân thật, nhưng con người không biết nhìn nhận hạnh phúc này, mà đi tìm cầu cái hạnh phúc giả tạm kia.

Chuông lòng thánh thoát từ tâm

Pháp âm thơm ngát, khói trầm quyện bay

Lòng an, tâm tịnh mỗi ngày

Dứt phiền não đoạn, tỏ bày tính chân … (Hoa Mai) [3]

Như vậy, với rất nhiều định nghĩa về hạnh phúc, chúng ta sẽ tìm hiểu về Hạnh Phúc mà Đức Phật nói trong An Lạc Hạnh như thế nào.

Ở đây trong An Lạc Hạnh đức Phật dạy:

2.3.2. Nhẫn nhục là hạnh phúc

Chính Văn:

Văn Thù Sư Lợi! Vân hà danh Bồ-tát Ma-ha-tát hành xứ? Nhược Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nhẫn nhục địa, nhu hòa thiện thuận, nhi bất tốt bạo, tâm diệc bất kinh; hựu phúc ư pháp vô sở hành, nhi quán chư pháp như thực tướng, diệc bất hành bất phân biệt, thị danh Bồ-tát Ma-ha-tát hành xứ.

Dịch: “Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát? Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi nhẫn nhục, nhu hòa thiện thuận mà không vụt chạc nóng nảy, tâm cũng không kinh sợ. Lại nữa, đối với các pháp mà vô sở hành (không chấp có sở hành sở chứng), mà lại quán tướng như thật của các pháp; song, chẳng hành theo (chẳng chấp vào) sự chẳng phân biệt ấy. Đây gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát.” [5]

Khi ta nhẫn nhục nhu hòa, không nóng nảy, mọi việc xảy ra đều xử lý một cách bình tĩnh như vậy thì tâm ta yên tĩnh không bị phiền não điên đảo chi phối, trí tuệ nhờ đó hiển bày mà ta xử lý các việc được tốt đẹp.

Trong mọi mối quan hệ nói chung và quan hệ gia đình nói riêng, nhẫn nhục là yếu tố đem lại hạnh phúc vô cùng to lớn, có bài thơ nói về hạnh nhẫn như sau:

Nhịn được cái tức một lúc, tránh được mối lo trăm ngày

Muốn hoà thuận trên dưới, nhẫn nhịn đứng hàng đầu

Cái gốc trăm nết, nết nhẫn nhịn là cao

Cha con nhẫn nhịn nhau, vẹn toàn đạo lý

Vợ chồng nhẫn nhịn, nhau con cái khỏi bơ vơ

Anh em nhẫn nhịn nhau, trong nhà thường êm ấm

Bạn bè nhẫn nhịn nhau, tình nghĩa chẳng phai mờ

Tự mịnh nhẫn nhịn được, ai ai cũng mến yêu

Người mà chưa biết nhẫn chưa phải là người hay.

Nhẫn là gì?

Chữ nhẫn chiết tự ra gồm chữ “đao” nghĩa là dao, chữ “nhận” nghĩa là nhọn, chữ tâm nghĩa là tim. Khéo khen ai nghĩ ra cái cấu hình con dao nhọn để trên trái tim như vậy khiến cho chữ nhẫn diễn tả một hành xử được nhiều người chọn trong một xã hội có nhiều áp lực: Đó là tính chịu đựng.

Ý nghĩa của chữ “nhẫn”

Theo Hán học, chữ “nhẫn” được tạo bởi hai chữ: chữ “đao” và chữ “tâm”, được thể hiện theo cách: chữ “đao” đặt trên chữ “tâm”. Người xưa nói: Luyện tính “nhẫn” như lúc nào cũng có lưỡi dao đâm vào tim là vậy.

“Nhẫn” có nghĩa là biết lắng nghe, biết tiếp thu ý kiến của người khác, để điều chỉnh hành vi.

“Nhẫn” là nhịn, sẵn lòng: nhẫn một tý để đỡ sinh chuyện, nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục.

Nhẫn nại: bền bỉ, chịu khó, chịu khổ, kiên trì theo đuổi đến cùng công việc đã đặt ra, nhẫn nại học tập, biết nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ trong rèn luyện.

“Nhẫn” còn có ý là chịu dằn lòng xuống để tránh bực tức, cãi vã.

Ý nghĩa của chữ “nhẫn” là thế, nên tổ tiên ta có câu “chữ nhẫn quý hơn vàng”.

Từ xa xưa, tổ tiên ta muốn các thế hệ con cháu luôn luôn nhớ và thực hiện đức tính “nhẫn” đã nghĩ ra cách, dùng kim loại chế tác một cái vòng xỏ vào ngón tay để luôn nhắc nhở ta, rèn luyện lời ăn tiếng nói, hành vi cử chỉ sao cho tốt đẹp, gọi đó là cái “nhẫn”.

Thuở ban đầu, đời sống kinh tế còn thấp, nên nhẫn được làm bằng đồng thau, rồi tiến đến bằng bạc, và thế kỷ XX làm bằng vàng, hoặc nhẫn khảm đá quý.

Có điều đáng nói là, không ít người chỉ coi chiếc nhẫn là đồ trang sức, nhằm tô thêm vẻ đẹp, sự sang trọng cho con người, mà quên hẳn, thậm trí không biết đó là một thực thể, để nhắc ta luôn luôn nhớ đến việc thực thi đức “nhẫn” trong đời sống hàng ngày. Đối với chiếc nhẫn cưới, cũng là thế!

Trong mối quan hệ của gia đình, nhẫn nhục mang đến sự êm ấm hạnh phúc như thế và trong mọi mối quan hệ trên đời này thì nhẫn nhục cũng là yếu tố mang lại sự hạnh phúc cho nên Đức Phật dạy trong phẩm An Lạc này là luôn nhu hòa, không để hoàn cảnh chi phối, quán được các pháp vốn nó do nhân duyên sinh ra, cái gì cũng có nguyên nhân của nó cho nên đừng vội vàng xét đoán hay hành xử theo chiều hướng tiêu cực để rồi sự dễ dàng đổ bể, phiền não đi theo sau, hạnh phúc sẽ vắng bặt.

Cũng có người nói nhẫn là nhục, nhẫn hoài mà không được an vui rồi lại bị người ta đè nén, ăn hiếp, nói như vậy là trái với luật nhân quả, bởi vì chúng ta nhẫn không đúng cách, chúng ta phải học theo lời Phật dạy cho đúng đó là nhẫn nhục nhu hòa chứ không nhu nhược, nhẫn nhục nhưng phải có trí tuệ, không nóng giận, không sợ sệt, không chấp trước, hòa ái yêu thương, không còn có chấp cái ta, cái của ta, nếu không bỏ hết được cái chấp trước ấy thì cũng đừng nên cố chấp làm gì? Chấp nhiều thì phiền não nhiều, xả bỏ thì an vui đến. Như vậy yếu tố để đem đến Hạnh Phúc đó là sự xả bỏ không chấp trước cũng được Đức Phật dạy trong phẩm này.

Pháp hạnh phúc tiếp theo Đức Phật dạy đó là sự xa lìa:

2.3.3. Xa lìa những điều xấu ác là hạnh phúc

+ Xa lìa người quyền thế.

Chính văn:

Vân hà danh Bồ-tát Ma-ha-tát thân cận xứ? Bồ-tát Ma-ha-tát bất thân cận quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng.

Dịch: Thế nào gọi là “chỗ thân-cận” (thân cận xứ) của đại Bồ-tát? – Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng. [5]

Người quyền thế là những hạng người có thế lực trong xã hội thường thì khi thân cận họ ta sẽ được nhiều lợi ích thực dụng ví như khi ta thân cận người có quyền thế ta sẽ được bảo bọc che chở ngay cả khi ta làm điều sai quấy ta cũng được bảo bọc nâng đỡ thậm chí còn được hưởng bổng lộc thăng tiến lớn. Nhưng làm như vậy liệu ta có thực sự an vui hạnh phúc không, nếu khi ta đi ra đường tham gia giao thông cậy là có thế lực, thân cận với những người có địa vị cao trong xã hội, ta không chấp hành luật giao thông đến khi xảy ra tai nạn chết người, nhờ vào thế lực ta có thể không bị kiện ra tòa vì tội cố ý vi phạm giao thông nghiêm trọng gây chết người, nhưng ta thoát được kiện rồi liệu ta có được an vui thực sự hay không, hay trong lòng ta lúc nào cũng bất an, giả như ta không có thế lực, không dựa dẫm vào họ có khi ta đi đúng luật thì nếu có điều không may xảy đến với ta ta cũng không ân hận, mà cũng không lo sợ người ta oán mình. Sự lo lắng không còn là nỗi băn khoăn trắc trở nữa, tháo gỡ được thì tâm được an ổn.

Như vậy người quyền thế là một tác nhân bên ngoài khiến cho ta dễ ỷ lại mà làm điều sai quấy để rồi dẫn đến bất an chứ thực ra người quyền thế không phải là mặt trái gây khổ đau, đối với những người còn non yếu chưa trải qua sóng gió, có sự kham nhẫn và chịu đựng thì không được thân cận những đối tượng này kẻo dẫn đến tai họa không lường được bởi mình chưa ý thức cao độ được đối với hành vi hành động của mình thì nên xa rời, còn đối với người đã có đủ khả năng, có tầm thế thì càng nên kết giao để phát triển mở rộng tầm nhìn. Trong xã hội được nhiều mất cũng lắm, người khôn ngoan phải biết để cho mình một chỗ đứng không được dựa dẫm bị động rồi đau khổ kéo theo sau. Cho nên ngụ ý của Đức Phật dạy chúng ta chính là ở chỗ này.

Trong xã hội ngày nay, cơ cấu tổ chức các ban ngành cũng khá khăng khít và bỗng trở thành guồng máy xã hội, khi con người không thuận theo guồng máy ấy mà tách ra thì bị quăng ngã không có chỗ đứng, như vậy cũng là một điều đáng lo ngại, vậy làm sao có thể tồn tại được, đó chính là mấu chốt vấn đề. Ở đây ta học pháp Phật là phải hiểu cho rốt ráo, không thân cận người quyền thế không có nghĩa là không thuận theo, mà ta chỉ không bị hòa tan thôi, ta làm việc gì âu đó cũng là do nhân duyên, ta luôn tận tụy hết mình với công việc không nên ỷ lại cũng không nên chống trái bởi trên cuộc đời này mọi thứ là đối đãi cho đến khi ta giác ngộ thì mới hiểu được sự đối đãi ấy là như thế nào, lúc đó ta bừng tỉnh và ôi hạnh phúc đã đến bên ta rồi đó. Điều khó làm mà ta làm được thì hạnh phúc đó mới chính là đích thực, lúc ấy người trên tin tưởng, người dưới mến yêu, chẳng phải chính ta đã làm cho ta và người cùng hạnh phúc đó sao.

Không dừng lại ở ý nghĩa đó mà trong đây, Đức Phật còn ngụ ý dạy rằng: quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng đó là dụ cho các thức thức phân biệt mà trong Duy Thức học có nói đến Bát thức tâm vương, quốc vương dụ cho thức thứ tám là A lại da thức là nơi lưu trữ tất cả chủng tử tiềm tàng do ý thức tạo ra, thức này là nền tảng cho các thức khác nảy sinh. Khi ta dựa dẫm hay chấp trước thì có nghĩa là ta bị phiền luỵ buộc ràng không giải thoát được, bởi còn thức thì còn phân biệt, còn khổ, chỉ khi ta chuyển bát thức thành tứ trí thì hạnh phúc mới thực sự hiển bày. Cho nên xa lìa người quyền thế ở đây ý nói sâu xa hơn đó là chúng ta phải tu tập để chuyển đổi những chấp trước phân biệt thuộc về thức để huân tập những chủng tử lành, tu hành lìa bỏ những tập khí xấu để thành tựu được Tứ trí. Xa lìa ở đây là không chấp trước, không dựa dẫm bởi còn thức thì còn vô minh, còn vô minh thì còn đau khổ, còn khổ đau thì không an lạc. Do vậy, muốn được an lạc thì nên xa lìa mộng tưởng điên đảo để đạt đến cứu kính Niết Bàn, nơi thức đó không phải là chỗ cho an lạc hiển bày cho nên cần phải lìa bỏ là vậy. Cái ý nghĩa an lạc hạnh phúc chính là chỗ rốt ráo này.

+ Xa lìa người tà, pháp tà.

Chính văn:

Bất thân cận chư ngoại đạo phạm chí, ni-kiền-tử đẳng, cập tạo thế tục văn bút, tán vịnh ngoại thư, cập lộ-già-da-đà, nghịch-lộ-già-da-đà giả.

Dịch: Chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm-chí, Ni-kiền-tử v.v…, và chẳng gần những kẻ viết văn chương thế tục, những người ngâm nga khen ngợi sách ngoại đạo, cùng hạng Lộ-già-da-đà, Nghịch-lộ-già-da-đà. [5]

Yếu tố này chính là một yếu tố đem lại hạnh phúc cho con người. Trong bài kinh Hạnh Phúc Đức Phật cũng có dạy:

Không gần gũi kẻ ác,

Thân cận bậc trí hiền,

Đỉnh lễ người đáng lễ,

Là phúc lành cao thượng.

 Ở trú xứ thích hợp,

Công đức trước đã làm,

Chân chính hướng tự tâm,

Là phúc lành cao thượng.

 Đa văn, nghề nghiệp giỏi,

Thông suốt các luật nghi,

Nói những lời chân thật,

Là phúc lành cao thượng.

 Hiếu thuận bậc sinh thành,

Dưỡng dục vợ và con,

Sở hành theo nghiệp chính,

Là phúc lành cao thượng.

Bố thí, hành đúng pháp,

Giúp ích hàng quyến thuộc,

Giữ chính mạng trong đời,

Là phúc lành cao thượng.

 Xả ly tâm niệm ác,

Chế ngự không say sưa,

Không phóng dật trong pháp,

Là phúc lành cao thượng.

 Đức cung kính, khiêm nhường,

Tri túc và Tri ân,

Đúng thời nghe chính pháp,

Là phúc lành cao thượng.

 Nhẫn nại, lời nhu hòa,

Yết kiến bậc Sa-môn,

Tùy thời đàm luận pháp,

Là phúc lành cao thượng.

 Tự chủ, sống Phạm hạnh,

Thấy được lý Thánh đế,

Giác ngộ đại Niết-bàn,

Là phúc lành cao thượng.

 Khi xúc chạm việc đời

Tâm không động, không sầu,

Tự tại và vô nhiễm,

Là phúc lành cao thượng.

 Những sở hành như vậy

Không chỗ nào thối thất

Khắp nơi được an toàn

Là phúc lành cao thượng. [7]

Hạnh phúc có thực sự an ổn chúng ta phải tìm được đúng con đường, đúng thầy hiền bạn tốt.

Trong dịp lễ đầu năm, có những từ đường dòng họ lên thỉnh nhà chùa về làm lễ đầu năm cho gia đình, ngồi nói chuyện hỏi han về việc cúng lễ một chút, thầy chùa hỏi, hàng năm gia đình có cúng lễ đầu năm không, họ nói có, nhưng chỉ mời thầy cúng về, họ cúng cho nhưng không trang nghiêm, hỏi sao lại vậy, họ nói thầy cúng, vừa cúng vừa nghe điện thoại, chuông điện thoại thì để to làm ảnh hưởng đến những người xung quanh đang tập chung cúng lễ, rồi mất đi sự tín tâm cho nên năm nay không mời thầy cúng nữa.

Chỉ một câu chuyện nhỏ thế thôi nhưng cũng đủ thấy được sự khác biệt giữa những bậc thầy. Đối với một số người học cúng không đến nơi đến chốn lại chẳng có uy nghi phép tắc, đánh mất hình tượng của mình, ảnh hưởng đến sự trang nghiêm của Phật Pháp và coi nhẹ việc tâm linh, lòng họ chẳng an sao an được cho người. Người thầy, và nhất là người thầy tâm linh phải là một người có đạo hạnh, mọi cử chỉ nói năng đều xuất phát ở tâm bồ đề, lòng đại bi mà rộng độ chúng sinh. Cho nên bậc Thầy tu theo đức Như Lai thì là người có giáo giới giáo luật, cho nên họ có phong tướng oai đức toát ra bên ngoài khiến cho chúng sinh được nương nhờ. Do vậy mà Đức Phật mới căn dặn chúng ta phải xa lìa thầy tà bạn ác là như vậy. Gần thầy hiền thì ta cũng thấm nhuần pháp vị và được an ổn hạnh phúc, gần bạn ác thì thói hư tật xấu của ta cũng do đó mà tăng lên.

Chơi với người tốt như đi trong sương

Tuy không ướt áo nhưng tâm thường mát rượi

Chơi với người xấu như đi giữa rừng gươm

Tuy không bị thương nhưng thường sợ hãi.

Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu người đồng hành cùng với ta, ta chọn bạn mà chơi, tìm thầy mà học cho đến khi khôn lớn trưởng thành. Cũng có những người trái ý nghịch lòng để làm tăng trưởng ý chí, vượt khó của ta mà Phật Pháp gọi là những chướng duyên trên con đường tìm cầu chân lý, nhưng nếu ta không đủ khôn ngoan thì có khi bị người ta dẫn dắt lầm đường lạc lối rồi không đủ sức chịu đựng lại gục ngã, sa lầy vào nẻo tối tăm mà không tìm được đường thoát ra, như thế cho nên Đức Phật mới căn dặn chúng ta những điều trên đó để tiếp sức cho ta trên lộ trình tìm cầu hạnh phúc tối thượng.

+ Xa lìa trò hung hiểm.

Chính văn:

Diệc bất thân cận chư hữu hung hý, tương thoa tương phác, cập na-la đẳng chủng chủng biến hiện chi hý.

Dịch: Cũng chẳng gần gũi các trò gây nguy hiểm, đâm nhau, đánh nhau, và bọn người Na-la v.v… cũng chẳng gần gũi các trò ma thuật biến hóa. [5]

Các trò chơi gây nguy hiểm như đâm nhau, chọi nhau, chém con vật ở các lễ hội đang được xã hội ngày nay lên tiếng là những hành động thô bạo ác độc, và cũng rất phù hợp với lời dạy của Đức Phật từ xa xưa, việc giết hại sinh mạng để cúng tế thần linh mong cầu hạnh phúc cho mình là một điều phi luật nhân quả thế nhưng khi không có những trò mạo hiểm thì lễ hội không thu hút được quần chúng, làm sao lễ hội có thể tồn tại được nhiều và mang những sắc thái khác biệt được. Đây là điều đáng quan tâm và cần có những phương pháp khắc phục như thế nào.

Điều đáng nói ở đây là yếu tố hạnh phúc chân thực mà Phật pháp đem lại cho đời sống đó là sự nhận thức được rõ luật nhân quả. Trong xã hội luôn biến động với đầy màu sắc, nó vận hành trên các mặt xấu và tốt, đôi khi thấy là xấu đó nhưng nó lại làm cho người ta tin thì người ta lại cuồng theo cũng không ai ngăn cản được, tuy nhiên sau mỗi cuộc vui chơi con người phải biết tiết chế, các nhà tổ chức phải biết kết hợp để thỉnh các thầy đạo cao đức trọng về đó để giảng giải pháp thoại cho người dân ý thức được việc các hành động của mình mà thực hiện cho tốt. Sống phải luôn trung đạo, việc gì cũng có cái hay của nó đừng nên thái quá là được. Đó là lời Phật dạy trong nhân gian ở mức trung đạo là hay nhất. Đến một tầm hiểu biết sâu hơn con người sẽ bỏ dần được những điều xấu ác để trở về với Phật tính của mình đó cũng chính là Tri Kiến Phật mà kinh Pháp Hoa nói đến và Đức Phật – Ngài chỉ bày đó thôi.

Cho nên xa lìa được trò hung hiểm chính là hạnh phúc rồi. Nếu ai tự làm được như vậy thì hạnh phúc, xã hội nào làm được thì xã hội đó yên ổn, đất nước làm được thì đất nước thái bình, thế giới không còn chiến tranh bạo loạn. Được an lạc hạnh phúc như tịnh độ của Phật vậy.

+ Xa lìa dục tưởng.

Chính văn:

        Văn Thù Sư Lợi! Hựu Bồ-tát Ma-ha-tát, bất ưng ư nữ nhân thân, thủ năng sanh dục tưởng tương nhi vị thuyết pháp, diệc bất lạc kiến. Nhược nhập tha gia, bất dữ tiểu nữ xử nữ quả nữ đẳng cộng ngữ.

Dịch: Này Văn-thù-sư-lợi! Lại nữa, Đại Bồ-tát không nên nơi thân người nữ khởi sanh tư tưởng dục nhiễm mà thuyết pháp cho họ, cũng chẳng ưa thích nhìn. Nếu vào nhà người, đừng trò chuyện với gái nhỏ, xử nữ, quả phụ (tiểu nữ, xử nữ, quả nữ), v.v… [5]

Không thân cận người nữ ở đây dụ cho dục tính phát khởi sinh đắm chấp, làm cho lòng ham muốn tham lam dễ sinh khởi dẫn đến hành động không được chuẩn chỉnh và kéo theo tai họa sinh phiền não cho mình và người. Con người biết tiết chế dục vọng, ham muốn biết điểm dừng thì ở đó có hạnh phúc, nếu phúc mình không đủ mà tiêu xài lãng phí không biết tiết chế thì có ngày rơi xuống vực sâu của lòng tham dục vọng không chế ngự được và rồi khổ đau kéo đến, vui trong chốc lát mà khổ đau thì triền miên, đó chẳng phải là hạnh phúc mà Đức Phật nói đến.

2.3.4. Tâm rộng lượng bố thí là hạnh phúc

Bố thí với tâm rộng lượng, không phiền não, bố thí là chấp nhận nghèo đi, của cải vơi bớt, chấp nhận sự cho đi là đem lại hạnh phúc cho người khác. Không vì mong cầu hạnh phúc của mình mới cho đi. Nếu vì mong cầu hạnh phúc cho mình mà bố thí thì hạnh phúc đó chẳng khác gì mua được bằng vật chất hay sao? điều dễ dàng như vậy ai làm chẳng được? Nhưng Đức Phật dạy một hạnh phúc có đến được đó là khi ta cho đi, bố thí mà ta thấy tâm mình an vui như vừa mới cứu được mình thoát chết thì đó là hạnh phúc viên mãn hỉ lạc không bị ràng buộc trong lo âu sợ hãi, hạnh phúc đó không bị lung lay, không bị thoái chuyển. Giống như ông Cấp Cô Độc, nhà ông giàu có là một phần nhưng tâm ông rộng lượng là phần khác, ông bố thí cho người nghèo đều đặn, những người giàu có như ông cũng không phải là ít, họ cũng học theo ông để mà bố thí, một thời gian của cải vơi đi trở lên nghèo khó bắt đầu sinh tâm phiền não tự nghĩ một điều: lúc ta giàu có ta cho đi, bây giờ ta nghèo không ai giúp ta, chính ý niệm đó khởi sinh ra phiền não đối đãi đốt chết tâm chúng ta làm chúng ta bị đau khổ, thì hạnh phúc còn đâu ngự trị. Ta dù có bị nghèo vì bố thí nhưng tâm ta vẫn giữ bình thản, ta giàu có thì ta làm nhiều việc giúp người bây giờ ta không có thì ta không giúp nữa, ta an phận bằng lòng với chính mình, cũng không ai trách ta được ta. Có thì dùng làm việc tốt, không có thì cũng không sao, ta tự tại ung dung lạc quan giữa cuộc đời chẳng phải là hạnh phúc đó sao.

2.3.5. Trí tuệ là hạnh phúc

Nhận chân được thực tướng của các pháp, soi xét thấu đáo mọi việc, phân biệt được đúng thiện ác nhân quả đó là hạnh phúc. Người không có trí tuệ, nhìn mọi việc không tinh thông xử lý các việc theo cảm tính thành ra sai lầm và dẫn đến có hại cho mình cho mọi người như thế khổ đau sẽ chạy đến.

Ví dụ như khi chúng ta làm Phật sự mà không có trí tuệ phân biệt được phải trái đúng sai, không giữ được lập trường, suy nghĩ thiên lệch cố chấp bảo thủ thì Phật sự của ta sẽ nhanh chóng bị hủy hoại mà thôi.

2.3.6. Giữ gìn thân, khẩu, ý thanh tịnh là hạnh phúc

Chính văn:

Sau Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp muốn nói kinh nầy, Bồ-tát phải ở yên trong “An lạc hạnh”. Nghĩa là, khi nói cũng như khi đọc kinh này, chẳng nên vừa nói đến sự sai quấy của người và của kinh điển, cũng chẳng nên có lòng khinh rẻ, kiêu ngạo đối với các Pháp sư, chẳng nên nói đến sự tốt xấu, hay dở của người khác, đối với hành Thanh Văn, chẳng nên kêu đích danh mà vạch sự sai lầm, gàn dở của họ, cũng không nên kêu đích danh mà khen tặng cái hay của họ, lại cũng không sinh tâm thù hiềm. Khéo sửa lòng cho được an lạc như vậy thì không làm nghịch lý người nghe. Còn có ai vấn nạn thì đừng giải đáp bằng pháp Tiểu Thừa mà bằng pháp Đại Thừa, để cho người hỏi được Chính Giác. [10]

Trên đây Đức Phật dạy chúng ta biết giữ gìn thân, khẩu, ý của chúng ta, không nói thị phi lỗi của người khác, nói được lỗi của người để người ta thấy hoan hỉ thì được nhưng đối với người cố chấp bảo thủ, khi bị ta nói lỗi họ sinh tâm giận ghét và như thế họ và chính chúng ta cũng không có sự tương thông cho nên sinh hận thù nhau, không tìm được điểm tương đồng của nhau thì làm gì có hạnh phúc. Cho nên Ngài Ấn Quang Đại Sư mới dạy chúng ta rằng:

Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình.

Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người

Hãy coi mọi người đều là Bồ tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu’’.

Bồ Tát muốn thuyết pháp phải giữ lòng an vui, trong sạch, thân thể phải tắm rửa cho sạch, mặc y mới, nói tóm lại là trong ngoài phải thanh tịnh, nhiên hậu mới lên ngồi pháp toà, tùy lời hỏi của người mà giảng. Đối với người vì Đạo thì đem diệu nghĩa ra mà dạy, mặt mày hoà nhã, đối với người vấn nạn, thì tùy nghĩa mà đáp, khi thì dùng nhân duyên, khi thì dùng thí dụ mà diễn mà giải rạch ròi, để lần hồi dắt dẫn họ vào đường sáng (Phật Đạo). Tự mình, phải trừ mọi ý niệm ỷ lại, mọi tư tưởng lười biếng, xa lìa mọi lo nghĩ, buồn rầu, mở rộng lòng từ, ngày đêm nói pháp để mở mắt cho chúng sinh mà không bao giờ mong cầu sự cúng dường, chỉ một lòng tưởng nhớ đến việc lấy pháp làm nhân duyên để thành Phật đạo, khiến người nghe cũng cùng một tâm niệm.

Khi giữ được khẩu rồi còn thân và ý nữa Phật cũng dạy chúng ta phải giữ gìn thì mới khiến cho mình và người đều được hạnh phúc. Ba nghiệp thanh tịnh thì đồng Phật đáo Tây phương

2.3.7. Phát Đại Bi Tâm là Hạnh Phúc

Lại nữa này Văn Thù! Trong đời mạt pháp, ai là người muốn nắm giữ Kinh Pháp Hoa, phải sinh tâm đại bi đối với hàng xuất gia và tại gia. Đối với người chẳng phải là Bồ- tát(chưa tu hạnh vị tha), cũng phát đại bi tâm mà ta nghĩ như vầy:

Như Lai phương tiện tuỳ nghi thuyết pháp, mà họ lại chẳng nghe, chẳng biết, chẳng tỉnh, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giữ, thật là bất lợi vô cùng. Ngày nào ta được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, nguyện sẽ dùng thần lực trí lực mà dắt dẫn họ vào ở yên trong Đạo Pháp.  Đó là pháp “An Lạc” thứ tư.[10]                                                                                                   .

Trong kinh văn có nói đến sự phát tâm bi, ở đây phát tâm đại bi đối với người thân kẻ sơ, người hiền kẻ ác… đều phát tâm đại bi mà sống cùng với họ.

Trong một ngôi chùa, có rất nhiều Phật tử lui tới, họ đến với các quý thầy từ nhiều tâm tình khác nhau, người thì vì cầu khẩn mà đến, người thì vì chuyện cuộc sống gia đình mà đến, người thì vì muốn nhờ việc mà đến, người thì muốn đến làm công quả… mỗi người đều có những nhu cầu mục đích khác nhau, suy nghĩ khác nhau và cuộc sống của họ cũng không đồng, họ tới để mong được nương tựa và xin những lời khuyên của quý thầy. Nhiệm vụ của người tu là làm sao phải dung thông được họ, che chở được họ để cùng giúp cho họ an ổn và được lợi lạc. Nếu không phát tâm đại bi mà dung nhiếp họ thì sao có thể hiểu được họ để rồi từ đó giúp được họ, giải tỏa những phiền phức tâm lý cho họ để họ được an tâm. Không phát tâm đại bi mà thương họ thực sự thì có khi ta lại bị chính phiền não của họ làm cho ta bận rộn và trở lên phiền não hơn. Như thế khi phát được tâm đại bi là chính chúng ta đã đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng ta rồi từ đó nhiếp hóa được mọi người quay về chân giác, cùng tu tập để cũng được hạnh phúc.

 CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA HẠNH PHÚC QUA AN LẠC HẠNH

3.1. Hạnh phúc là mong cầu của toàn nhân loại

Giáo lý Tứ Thánh Đế, Đức Phật đã chỉ bày ra một chân lý đó là “Khổ Đế” mà từ ngàn xưa cho đến ngày nay không ai không công nhận chân lý đó, Đức Phật chỉ ra: “tứ khổ” nghĩa là sinh, lão, bệnh, tử đều khổ hay nói ngắn gọn hơn đó là “đời là bể khổ” từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi không ai tránh khỏi sự khổ. Vì vậy mong cầu được hạnh phúc đó là nhu cầu của con người, không ai là không mong muốn điều ấy. Đó là một thực tế không thể phủ nhận dù mỗi người đều có nhu cầu hạnh phúc khác nhau nhưng nói chung lại đều là mong cầu được an ổn và hạnh phúc.

Trong cuộc sống của mỗi người, ai cũng hướng tới mục đích mưu cầu hạnh phúc. “Quyền được mưu cầu hạnh phúc” là một trong những quyền con người đã được nêu lên trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Độc lập của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1945. Đây không chỉ là vấn đề chính trị và đạo đức, mà còn là một vấn đề triết học, nó đã được đặt ra từ thời cổ đại và được tranh luận trong suốt lịch sử phát triển của triết học.

Ở Ấn Độ cổ đại, chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo đòi hỏi cá nhân người tu hành phải hy sinh những ham muốn, dục vọng đời thường, dấn thân vào việc tu luyện khắc khổ để mong được giải thoát khỏi kiếp đời đau khổ nơi trần gian. Nó xuất phát từ triết lý trong Kinh Vêđa rằng, mọi đau khổ của con người đều xuất phát từ những ham muốn dục vọng cá nhân, chúng làm cho linh hồn cá thể (atman) mãi mãi gắn bó với thể xác trong một vòng luân hồi bất tận, là cái nghiệp gây ra hậu quả đau khổ ở kiếp sau. Nó có nhiều biểu hiện đa dạng, từ việc hạn chế ăn uống cho đến việc từ bỏ quan hệ tính dục. Ngoài ra, chủ nghĩa này còn có những biểu hiện cực đoan khác như suốt đời chỉ sử dụng một tay hoặc một chân, không dùng vải che thân… Tất cả những việc làm đó đều chỉ nhằm một mục đích duy nhất là mưu cầu sự bất tử và hạnh phúc vĩnh cửu cho linh hồn cá nhân người tu hành.

Ở Trung Hoa, Việt Nam và một số nước khác, trong suốt thời kỳ phong kiến, tuy không biết đến biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa khổ hạnh hay chủ nghĩa khoái lạc, nhưng lối sống của xã hội cũng chịu ảnh hưởng của hai khuynh hướng đối lập nhau. Trước hết là khuynh hướng nhập thế của Nho gia, chủ trương người trí thức phải học hành đến nơi đến chốn và đem tài năng của mình ra giúp đời, giúp nước. Hạnh phúc lớn nhất của người quân tử là được công hiến cho xã hội, lập được công danh. Khổng Tử đã từng phân biệt quan niệm về hạnh phúc của người quân tử với quan niệm của kẻ tiểu nhân. Ông nói: “Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở, quân tử quan tâm đến phép tắc, tiểu nhân quan tâm đến ân huệ”.

Ngược lại, những người theo phái Đạo gia (do Lão Tử sáng lập, Trang Tử phát triển) đã coi hạnh phúc cá nhân là ở cuộc sống vô vi, nhàn hạ, hòa hợp với tự nhiên. Sống hạnh phúc là sống thanh đạm, biết đủ, biết dừng, không tham lam, không bon chen, không cạnh tranh. Lối sống này cũng trở thành lối sống của nhiều người trí thức khi chưa gặp thời hoặc khi đã hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội.                                                                                            .
Bên cạnh phái Xinich còn có phái Xtôít (Stoicism), hay còn gọi là phái Khắc kỷ, do Dênôn ở Xiti (Zeno of Citium, khoảng 334 – 262 TCN), sáng lập, được nhà triết học Hy Lạp Epictetuyt (Epictetus, khoảng 55 – 135) và Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius ( 120 -180) phát triển. Phái Xtôít cho rằng, vũ trụ được điều khiển bằng lý trí (logos), bằng luật lệ tuyệt đối Người có lý trí là người hành động theo quy luật tự nhiên. “Hãy sống phù hợp với tự nhiên” là câu châm ngôn của phái Xtôít. Để đạt được hạnh phúc, phái Xtôít chủ trương sống có đạo đức có lý trí, dửng dưng trước tất cả mọi ham muốn vật chất. Bằng cách chế ngự được ham muốn và xúc cảm, những người Xtôít tin rằng có thể loại trừ được những tác động từ thế giới bên ngoài và tìm thấy sự yên bình bên trong tâm hồn.
Đối lập với các khuynh hướng khắc kỷ nêu trên, chủ nghĩa khoái lạc cũng phát triển mạnh trong suốt lịch sử triết học phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại.
Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtíp (Aristippus, khoảng 430 – 350 TCN.), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm thường, vị kỷ, đưa ra một học thuyết mà theo đó, sự thỏa mãn những dục vọng trực tiếp của cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục đích tối cao. Những khoái cảm xác thịt, theo phái này, còn đáng giá hơn những niềm vui trí tuệ hư ảo và phức tạp. Thực tế lịch sử đã cho thấy sai lầm cơ bản trong quan điểm của phái này, vì khi cá nhân con người chạy theo những khoái cảm xác thịt tầm thường thì không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được.                                                             .
Trái với chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, chủ nghĩa khoái lạc Êpiquya, gắn với trường phái triết học do Êpiquya (Epicurus, 341 – 271 TCN) sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc lý tính. Phái Êpiquya cho rằng, khoái lạc chân chính chỉ có thể đạt được bằng lý trí. Họ đề cao những phẩm hạnh như tính tự chủ và sự cẩn trọng. Khoái lạc lớn nhất là ở cuộc sống bình dị và điều độ, tiêu dao với bè bạn và cùng đàm luận triết học với họ. Họ lập luận rằng, sẽ là không tốt nếu làm điều gì đó để có được khoái cảm nhất thời nhưng lại gây ra hậu quả xấu cho tương lai, chẳng hạn, sự hoang dâm quá độ sẽ có hậu quả bất hạnh về sau.
Ở thế kỷ XVIII và XIX, những nhà triết học Anh, như Jeremy Bentham (1748 – 1832), và John Stuart Mill (1806 – 1873) đã đề xuất học thuyết khoái lạc phổ quát, được gọi là chủ nghĩa vị lợi. Theo Bentam, tiêu chuẩn cuối cùng của hành vi đạo đức của cá nhân là làm điều lợi cho xã hội theo nguyên tắc “hạnh phúc lớn nhất cho số đông người nhất”. Mill đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng của Bentham. Song, khác với Bentam, Mill đã phân biệt sự khác nhau về chất giữa các loại khoái cảm. Ông cho rằng, những khoái cảm tinh thần và đạo đức cao hơn những khoái cảm vật chất. Cũng có sự khác nhau giữa hạnh phúc và sự mãn nguyện “thà làm một Xôcrát không thỏa mãn còn hơn một tên ngu đần mãn nguyện”. Mill cũng phân biệt những trình độ cao thấp của hạnh phúc, chẳng hạn, thưởng thức nhạc kịch (opera) là hạnh phúc ở trình độ cao hơn so với việc chơi những trò chơi trẻ con đơn giản, mặc dù chúng có thể làm cho nhiều người vui thích hơn là đi xem biểu diễn nhạc kịch. Cũng theo Mill, những người ít học thức thường chạy theo những khoái cảm đơn giản, tầm thường, chỉ có những trí thức mới hiểu biết được giá trị của những khoái cảm tinh thần ở trình độ cao. [6]

Như thế, bằng các dẫn chứng trên đây cho chúng ta thấy được các nước Đông, Tây, các nhà triết gia từ xưa đến nay người ta đã có những phương pháp rèn luyện cả thân và tâm để tìm được sự hạnh phúc, phải nói là rất công phu để đạt tới được hạnh phúc. Người ta đã có thể đánh đổi rất nhiều để tìm được cái gọi là Hạnh phúc, rồi người ta nghiên cứu và tìm ra phương pháp để đạt đến sự hạnh phúc, nào là khổ hạnh, nào là dục lạc…, điều đó đủ thấy hạnh phúc là sự mong mỏi quan trọng đến mức độ nào đối với con người.

3.2. An Lạc Hạnh là pháp tu đưa đến Hạnh Phúc.

Kinh Pháp Hoa nói chung hay phẩm An Lạc Hạnh nói riêng không những có giá trị về mặt triết học kinh điển mà còn mang giá trị thực tiễn vô cùng to lớn. Kinh Pháp Hoa đưa ra những giá trị rất sâu sắc, về mặt tư tưởng giải thoát, kinh đưa con người thoát khỏi ý tưởng ràng buộc chấp trước. Đối với Kinh Pháp Hoa ta hoàn toàn được tắm mình trong biển pháp rộng mênh mông, sâu vô tận nhưng vô cùng hạnh phúc. Hạnh phúc đó sẽ trọn vẹn hơn trong cuộc sống nếu ta biết thụ trì kinh Pháp Hoa một cách đúng đắn. Người thụ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa được gọi là Hành Giả Pháp Hoa.

Với những nội dung mà kinh văn ghi lại trong An Lạc Hạnh là những pháp tu giúp hành giả đạt được hạnh phúc ngay tại thế gian này không đâu xa xôi.

Chính văn:

Thường hiếu tọa thiền, tại ư nhàn xứ, tu nhiếp kỳ tâm. Văn Thù Sư Lợi, thị danh sơ thân cận xứ.

Dịch: Thường thích ngồi thiền, ở chỗ thanh vắng, tu nhiếp tâm mình. Văn-Thù-Sư-Lợi! Đó gọi là “chỗ thân-cận” (thân cận xứ) đầu tiên. [5]

Tọa thiền sẽ đạt được định lực; đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là thiền. Thiền chính là mình, mình cũng chính là thiền; thiền luôn theo ta, ta cũng luôn theo sát thiền như hình với bóng, muốn lìa xa cũng không thể được. Đó chính là định lực, khi có định lực, chúng ta trở lên sáng suốt, nhìn mọi thứ đều đúng đắn và đáng yêu, hạnh phúc an vui luôn ngập tràn.

 “Tu nhiếp tâm mình” là tu hành và nhiếp tâm, nghĩa là chúng ta không để cho tâm mình chạy lung tung, lúc chỗ này lúc chỗ khác, niệm trước ở đây niệm sau đã ở chỗ khác như khỉ vượn truyền cành liên tục không ngừng nghỉ, nếu chúng ta cứ để tâm nó chạy lăng xăng tán loạn như thế thì chẳng mấy chốc tâm nó mệt mỏi thì phiền não sẽ sinh ra khiến cho chúng ta rơi vào trạng thái bế tắc, căng thẳng tăng stress dẫn đến các bệnh lý về tim mạch và não bộ. Khi tâm nó loạn thì khó mà khống chế được mọi khổ đau do thân đem lại do đó pháp tu nhiếp tâm là liều thuốc chữa trị hay để lành bệnh sớm và đem lại hạnh phúc cho chúng ta không đâu xa xôi là vậy.

Mạnh Tử nói: “Người ta để xổng gà chó thì biết đi tìm; như thả rong tâm thì lại không biết đi tìm, than ôi!” Người ta nuôi gà chó, nếu nó chạy mất thì còn biết đi khắp nơi tìm. Ô! Gà của tôi mất rồi, chó của tôi không biết chạy đến nơi nào, thế là vội vã đăng báo tìm: “Chó của tôi đi mất, nếu người nào nhìn thấy, xin gọi điện thoại đến địa chỉ… để tôi xin được gặp!”; trái lại tâm của chúng ta mà chạy mất thì lại không biết đi tìm.

Như thế, các pháp Thiền định, nhiếp tâm là pháp tu đưa đến hạnh phúc, có thực hành là có hạnh phúc ngay, như người khát cần uống nước, uống nước là đỡ khát luôn, nhanh như vậy đó cho nên chúng ta phải mau mà tu tập.

Trong thời mạt pháp, Bồ tát nào th trì, đọc tụng kinh này thì không nên chứa chấp sự ganh ghét, tà bậy, khinh khi người học Phật, không làm cho hạng tu hành chán nản, cũng không nên đem Đạo Pháp ra bàn chơi, tranh cãi. Phải:

– Đối với tất cả chúng sinh, khởi lòng đại bi.

– Đối với Chư Như Lai, sinh lòng kính trọng như Cha lành

– Đối với Bồ-tát, sinh lòng tôn kính như Thầy.

– Đối với mười phương Bồ-tát, sinh lòng cung kính cúng dàng.

Thực hiện đầy đủ pháp “ an lạc” này, thì khi thuyết kinh, không làm cho người nghe hoang mang, được người cùng theo mình mà đọc tụng, còn đại chúng sẽ tới nghe lĩnh lời kinh, lĩnh rồi nắm giữ, giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ chép và khiến người cùng chép. [5]

Và như vậy, trên đây Đức Phật đã dạy rất rõ, rất cụ thể từng pháp tu cho chúng ta đó là thân, khẩu, ý của chúng ta phải luôn luôn gìn giữ, khi nói năng hay hành động đều phải làm lợi ích cho mọi người mọi loài, có như thế thì hạnh phúc mới đến bên ta. Hạnh phúc đó là hạnh phúc viên mãn tròn đầy không bị lung lay và chi phối bởi ngoại cảnh.

3.3. Hạnh An Lạc đem lại sức sống cho nhân loại.

Trong mọi thời đại thì nhu cầu mong muốn được hưởng hạnh phúc và tìm đến hạnh phúc là một mong cầu thiết yếu của toàn nhân loại nói chung. Đạo Phật là một chân lý tuyệt vời giúp cho cuộc đời nở đầy hoa hương hạnh phúc, mà hạnh phúc ở đây là hạnh phúc viên mãn tròn đầy không bị lay chuyển và mong manh như bao hạnh phúc khác của thế gian. Với An Lạc Hạnh người đọc đã cảm thấy bầu trời hạnh phúc rồi, còn nói đến sự thực hành nó thì lại càng rốt ráo hơn. Người hành trì Pháp Hoa sẽ được an lạc hạnh phúc đời này và mãi mãi đời sau. An Lạc Hạnh là một bông hoa thơm trong vườn hoa hương sắc của Phật pháp, có sức sống mãnh liệt bởi nó luôn đồng hành cùng nhịp sống.

Triết lý mà An Lạc Hạnh đem lại thì giúp cho mọi người được sống an ổn trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, với An Lạc Hạnh, nhân loại nói chung và hành giả Pháp Hoa nói riêng sẽ tìm được hạnh phúc, sự an lạc ngay trong cuộc sống hàng ngày trong từng hơi thở.

Chính nhờ vào An Lạc hạnh mà con người sống hoà hợp nhu thuận kính trọng nhau trong khối đại đoàn kết, hoà hợp đem lại hạnh phúc cho cộng đồng và cá nhân mỗi con người. Pháp Hạnh phúc này góp phần kết nối những trái tim, đem đến nguồn sống lành mạnh và trong sáng không bị giới hạn ràng buộc trong một sự ích kỷ hẹp hòi nào khiến cho thế giới hoà bình nhân dân an lạc. Đây cũng là một phương tiện cực kỳ hữu ích trên lộ trình giải thoát của hành giả học Phật. Chúng ta cần xiển dương và thực hành pháp này rộng ra cho đến tất cả mọi người mọi loài.

3.4. Hạnh An Lạc đưa chúng sinh vượt thoát khổ đau chứng nhập Niết Bàn.

Đọc phẩm An Lạc Hạnh, cần ghi nhớ rằng trên bước đường theo dấu chân Phật, chúng ta làm bất cứ việc gì không an lạc sẽ không giải thoát được. Nói cách khác, chúng ta có thể sử dụng tất cả các pháp như phương tiện hành đạo, nhưng phải nhớ phương tiện nào cũng phải dẫn đến thân tâm an lạc; vì đạo Phật lấy giải thoát là chính.

Đức Phật dạy thân, khẩu, ý an lạc và kinh điển Đại thừa khai triển thêm thệ nguyện an lạc, theo đó những gì chưa làm được, chúng ta phải để đó và nguyện đến khi có đủ điều kiện sẽ làm.

Theo pháp an lạc tu hành, thì không chán nản, không thoái tâm, không bỏ cuộc. Thật vậy, nhiều người chỉ vì quyết tâm phải thực hiện việc gì mà phải bị tan thân mất mạng hay bị tù đày, thân bại danh liệt. Vì làm chưa đúng lúc, không đúng chỗ, không đúng người, không thể thành công; hoa nở hay tàn cũng phải tuân theo quy luật tất yếu, không thể khác.

Câu nói nổi tiếng của Thiền sư Nhật là đúng lúc giáo hóa mới giáo hóa được. Trong kinh Pháp Hoa phẩm thứ 7 Hóa thành dụ cũng nói rõ ý này, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng thành đạo rồi cũng phải chờ 10 tiểu kiếp mới thuyết pháp giáo hóa.

Sau khi nghe Đức Phật nói Ngài thành tựu hạnh kham nhẫn, khoan dung, từ bi  đối với người ác xấu chuyên hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa, giúp Ngài mau đạt quả vị Vô thượng Chính đẳng giác, thì các Bồ tát mới phát tâm thấy việc giáo hóa chúng sinh dễ dàng quá, hay quá, họ liền phát tâm hoằng truyền kinh Pháp Hoa không tiếc thân mạng. Nói cách khác, họ suy nghĩ hy sinh làm một việc nào đó, để được thiện pháp, để chuyển kiếp được tốt đẹp hơn, thì có mất mạng cũng không sao.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi là bậc đại trí biết rằng những người mới phát tâm làm như vậy có hại hơn là lợi; vì nghiệp và phiền não sinh ra, họ sẽ vào ba đường ác, không thành Thánh, thành Phật được. Chỉ khi nào tâm hoàn toàn trong sáng và lòng từ bi bao phủ cả vạn vật mới đủ khả năng hoằng truyền kinh Pháp Hoa, tức làm những việc khó làm. Chưa đạt được tư cách và đạo lực như Phật và các vị đại Bồ tát mà đánh mất thân mạng này thì bị đọa. Thật vậy, nhờ có thân tứ đại như một công cụ giúp chúng ta tiến tu lên quả vị Hiền, Thánh, Phật; nhưng một phút sai lầm tan thân mất mạng, muôn kiếp trầm luân thì rất khó tu.

Vì vậy, cần suy nghĩ cân nhắc, nếu việc làm chúng ta đụng chạm quyền lợi của người khác, họ phải giết mình, việc có lợi cho họ, họ mới ủng hộ. Nhận thức như vậy, điều quan trọng nhất Đức Phật dạy chúng ta là phải sống vô hại đối với mọi người. Có thể khẳng định rằng thiện pháp nhỏ nhất chúng ta tu là phải không gây tổn hại cho bất cứ người nào. Sống ở đâu hay làm bất cứ việc gì, giúp được người thì làm, không giúp được thì thôi, chứ không làm hại người. Đôi khi chúng ta nghĩ làm việc lớn lao, nhưng lại gây tổn hại vô số chúng sinh; như vậy, Đức Phật khuyên thà đừng làm còn tốt hơn. Dù chúng ta làm không tiếc thân mạng, nhưng phải có lợi cho ta và cho người, hoặc chỉ lợi cho người thôi là cao quý.

Ngài Văn Thù Sư Lợi thấy Bồ tát sơ phát tâm thường nhiệt tình, nhưng chỉ nên nhiệt tình ở mức độ nào chấp nhận được. Không thể lấy phúc đức và hoàn cảnh tốt đẹp của người mà tự đặt cho mình được; coi chừng sa chân lỡ bước, rơi xuống địa ngục, ngã quỷ, khó trở lại làm người. Thí dụ người có phúc báo đầy đủ như ông Cấp Cô Độc chuyên cúng dường, nghe pháp, không cần quản lý công việc, vì người làm của ông đều giỏi và hết lòng với ông. Ông bố thí liên tục một tuần, mở thí vô giá hội và càng cúng dàng, bố thí, ông càng giàu thêm. Còn người khác bắt chước như ông mà sau trở thành nghèo khổ, buồn phiền thì họ đã rơi vào Địa ngục, không cứu được.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hiểu rõ điều này, Bồ tát lớn càng tạo công đức càng giàu có thì tại sao lại không làm; nhưng Bồ tát nhỏ mới phát tâm, nghiệp còn nặng, phước còn ít, chỉ cúng dàng vài trăm nghìn đồng thì không còn tiền để sống, chắc chắn phiền não sinh ra. Vì vậy, Đức Phật khuyên người sức yếu đừng mang vác nặng vì không đi xa được; người mới tu cũng vậy, không làm nổi việc lớn. Đức Phật nói đến Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, thường ví như sức voi có khả năng chở nặng và đi ngược dốc mà không có loài thú nào ngăn cản được bước tiến. Trong khi Mục Kiền Liên là Thanh văn ví  như sức con nai chỉ kéo được một chiếc xe nhỏ chở được một người thôi. Chúng ta tự lượng sức mình, có chở nặng được không, có leo ngược dốc nổi không, nghĩa là có chống được thiên ma hay không. Hàng Thanh văn hầu hết phải tu xả ly, chưa nghĩ đến cưu mang người; vì tự biết nghiệp dày phúc mỏng, không gánh vác được việc lớn, cho nên lo giải thoát cho mình là chính.

Đức Phật dạy rằng Bồ tát nhỏ làm việc nhỏ, nghĩa là làm việc phụ. Những người thông minh, khỏe mạnh, nhiều phúc báo mới gánh vác việc lớn, thí dụ có khả năng xây chùa, bố thí, đào tạo người, vì họ có tiền nhiều, có nhân lực. Chúng ta làm những việc này không nổi, thì chỉ làm phụ như quét dọn chùa, bảo quản chùa, v.v… Và biết mình sức nhỏ, chúng ta phải tìm Bồ tát lớn để làm quyến thuộc, hợp tác với người có khả năng lãnh đạo để mình được đóng góp công sức, cũng có được chút phúc; còn tự làm là chuốc họa vào thân. Điều quan trọng là tu tạo cho phúc đức đầy đủ thì làm việc gì cũng được; không có phúc đức, cố làm thì chẳng những việc lớn không thành mà việc nhỏ cũng không xong.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi biết rằng các Bồ tát sơ phát tâm chưa có kinh nghiệm, không lường trước được thực tế phũ phàng, nên Ngài thương xót họ mà hỏi Đức Phật rằng sau Phật diệt độ, phải làm thế nào để hoằng truyền kinh Pháp Hoa.

Đức Phật dạy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng phải trụ bốn pháp mới hoằng truyền kinh Pháp Hoa được. Bốn pháp an lạc đó là thân cận xứ, hành xứ, hạnh an lạc và phát khởi tâm đại từ bi.

Ngài Huệ Tư đại Thiền sư lý giải thêm hữu tướng an lạc hạnh và vô tướng an lạc hạnh. Vô tướng tức lìa tướng để trụ an lạc, nghĩa là không bận tâm việc thế gian, tâm thuần Phật pháp thì bên ngoài xảy ra bất cứ việc gì, mình cũng không để tâm đến. Như vậy, khi đã trụ vô tướng an lạc hạnh, việc xấu mấy cũng không bị ảnh hưởng, vì mình đã trụ Phật pháp và chắc chắn rằng ở trong nhà Phật pháp là an lành nhất. Được Phật pháp che chở, chúng ta không khởi tâm, không động niệm. Trụ vô tâm như vậy, việc gần chúng ta nhất là bạn nói gì, chúng ta cũng không thắc mắc buồn phiền; còn nghe còn khởi niệm là còn có vấn đề xảy đến cho mình. Dùng vô tâm, trụ vô tướng, sống trong Phật pháp và giáo hóa chúng sinh bằng công đức của mình. Những người có duyên, Đức Phật sẽ khiến họ đến và mình dạy họ hoàn toàn khách quan; đó là trụ vô tướng, nên thân và tâm hoàn toàn được an lành.

Tuy nhiên, chưa trụ được vô tướng an lạc hạnh, thì phải trụ hữu tướng an lạc hạnh. Nghĩa là chúng ta còn sống trên cuộc đời, còn sinh hoạt với sáu giác quan, tức còn ở trong hữu tướng là ở trong thế giới sai biệt, thì tùy theo sự sai biệt này mà tu hành. Vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta nơi nào nên thân cận, nơi nào nên tránh; việc nên làm, việc không nên tham dự; người nên tiếp xúc, người phải tránh, kinh Pháp Hoa gọi là thân cận xứ và hành xứ.

Như vậy, hữu tướng an lạc hạnh là có sự chọn lọc, chọn thiện tránh ác để được an lành. Đức Phật dạy nên tiếp xúc với thiện tri thức, hay thầy hiền bạn tốt để hỗ trợ cho việc tiến tu của chúng ta. Đến học hỏi với người hiền, người tốt, vì gần họ, tính xấu của chúng ta không khởi lên và tính tốt của chúng ta được sinh ra. Người hiền, người tốt không hại ta mà còn cảm thông, an ủi ta, cho ta những lời khuyên chính đáng để ta tự sửa mình và họ cũng không kể tâm sự của ta cho người khác nghe. Gần người hiền, người tốt chắc chắn chúng ta được an vui.

Hạng người ác xấu, hung dữ, lừa dối, nhiều chuyện, chúng ta không khinh dễ họ, nhưng không dám gần gũi họ, vì chúng ta phúc mỏng và nghiệp nhiều, gần họ là lĩnh thêm nghiệp của họ, chúng ta không gánh vác nổi.

Nói chung, gần gũi người mà thấy tâm mình được an lành, được sáng suốt, bớt phiền muộn, thấy mình gần Phật hơn, thì ta nên gần người như vậy. Gần người mà tâm mình bị khuấy động lên, bất bình với cuộc đời, thù hận nổi lên thì ta phải tránh.

Trước nhất, nói về thân an lạc, giáo sư Kubota kiến giải rằng đặt thân vào chỗ an thì thân được an. Hành giả Pháp Hoa phải biết rõ chỗ an là chỗ không tranh chấp, không có quyền lợi, không dính líu đến chính trị, kinh tế, xã hội. Sự an lạc này thường được diễn tả rằng “Cái thân ngoại vật là Tiên trên đời”. Chỗ nào có tranh giành, có quyền lợi thì ta không để tâm, không tìm đến là được an liền tức khắc. Đức Phật cũng nói rằng chỉ có đời tranh chấp với Ngài, Ngài không bao giờ tranh chấp với đời.

Thứ hai là khẩu an lạc, cần biết những điều đáng nói và điều không nên nói. Khi hiểu biết chưa chính xác, lời nói chưa có giá trị, thì nên ít nói cho đến không nói. Ít nói ít lỗi và không nói điều không có, kể cả người có lỗi thật, chúng ta cũng không nói là khẩu được an. Không nhìn, không biết lỗi của người khác, vì biết quá nhiều cái xấu của người, thì mình khổ tâm trước. Và còn nguy hiểm hơn nữa là biết lỗi của người, họ sẽ hại mình để “bịt đầu mối”; thậm chí mình không nói mà họ còn nghi mình nói, vì mình đã thấy biết tội lỗi của họ. Trong kinh Viên Giác cũng dạy rằng không nên nói lỗi của người.

Trên bước đường tu, những điều đáng nói là điều có lợi ích mà ta đã trắc nghiệm có kết quả tốt đẹp, thì nên dạy cho người; nhưng cần hiểu thêm rằng hoàn cảnh của ta, nghiệp của ta và của người không giống nhau. Vì vậy, cần cân nhắc có những điều tốt thật cũng không nói vì nói phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng người. Hòa thượng Trí Tịnh thường nhắc nhở rằng không phải thấy đúng là nói, phải có lợi cho mình và nhiều người mới nói. Đức Phật trên bước đường thuyết pháp giáo hóa thường quán nhân duyên xem người nghe áp dụng được thì Ngài mới dạy, không nói chơi. Và chưa đúng lúc nói thì phải chờ, vì nói không đúng lúc chẳng những họ không nghe còn chống lại. Điển hình cho ý này là Ngài Phú Lâu Na bị Ngài Duy Ma quở trách tại sao lại đem pháp “Vô thường, Khổ, Không” để giảng dạy cho những thanh niên còn đầy nhiệt huyết muốn vươn lên trong cuộc sống, muốn dấn thân vào đời giúp người. Như vậy giáo pháp đúng, nhưng còn phải có phương tiện tuệ, nghĩa là biết rõ nói pháp đó thích hợp với đối tượng nào và nói lúc nào là tốt.

Thứ ba là ý an lạc, giữ tâm mình cho trong sạch, bằng cách luôn đọc tụng kinh điển và suy nghĩ sâu xa nghĩa lý của kinh, chắc chắn được an lạc. Mọi người thấy mình an trú trong công phu tu tập như vậy, họ không nói được. Còn mình đến người này chơi thì người kia sinh nghi mình.

Bên cạnh thân, khẩu, ý an lạc, còn có thệ nguyện an lạc rất quan trọng. Ví dụ thấy bạn sai, nếu không nói là mình ích kỷ, nhưng nói thì có chuyện. Vì vậy, thệ nguyện an lạc là không thể khuyên người được thì để đó, lúc nào thuận tiện nói được, nghĩa là họ phát tâm muốn sửa đổi, nói họ mới nghe theo. Thậm chí có những việc phải chờ đến lúc chúng ta thành Vô thượng Chính đẳng giác, họ coi lời nói chúng ta có giá trị và thật sự muốn nghe, mới chỉ dạy được. Còn hoàn cảnh ta xấu hơn họ, làm sao họ nghe theo, hoăc học vị ta thấp thì khó nói cho người học vị cao nghe, ta nghèo không thể nói cho người giàu theo.

Tóm lại, kinh Pháp Hoa tiêu biểu cho những điều cao quý nhất trên thế gian và kinh này được thể nghiệm lợi lạc ngay cuộc sống thế gian. Vì vậy, hành giả sơ phát tâm muốn dấn thân vào đời hành Bồ tát đạo theo tinh thần Pháp Hoa cần phải an trụ trong bốn pháp an lạc được Đức Phật chỉ dạy rõ ràng, mới có thể có cuộc sống an lành, giải thoát mà tiến tu đạo nghiệp vững vàng, kiên cố trên bước đường tự hành hóa tha, chứng nhập Niết Bàn. [9]

C. KẾT LUẬN

Phẩm An Lạc Hạnh là một phẩm đề cập đến nhiều vấn đề có giá trị sâu sắc riêng của nó, đây là phẩm nói đến pháp tu nhiều hơn. Muốn có cuộc sống hạnh phúc, không còn khổ đau thì ta tu theo An Lạc Hạnh. Với An Lạc Hạnh người học người tu tìm thấy hạnh phúc ngay trong tầm tay, mọi cung bậc cảm xúc đều được ghi nhận là hạnh phúc nếu biết áp dụng triết lý An Lạc Hạnh này trong cuộc sống hàng ngày. Nếu như mỗi cá nhân có những quan niệm về hạnh phúc khác nhau, phù hợp với từng người khác nhau thì An Lạc Hạnh lại là tổng thể những hạnh phúc có được nếu con người biết thực hành nó một cách tinh tiến và đúng pháp. Như vậy việc lưu truyền và quảng bá chính pháp đến cho nhân loại là một điều hết sức cần thiết để đem đến an vui hạnh phúc cho muôn loài không còn khổ đau mê chấp lầm than nữa. Người người biết thực hành theo chính pháp, nhà nhà biết an trú nơi chính pháp thì hạnh phúc hiện hữu, khổ đau vắng mặt và đó cũng là bản hoài của chư Phật và Bồ Tát mong muốn cứu độ chúng sinh, các Ngài ra đời không ngoài mục đích là ban vui cứu khổ.

Ngày nay trong xã hội chúng ta, không ít người đang mải mê đi tìm hạnh phúc ở đâu xa xôi, bỏ hình bắt bóng, không biết cân bằng cuộc sống bằng hạnh phúc hiện tại mà chỉ lo nghĩ về quá khứ hoặc lo rong ruổi tương lai, quanh quẩn trong vòng buồn giận thì tìm hạnh phúc hạnh phúc cứ xa vời, như con sư tử kia hỏi mẹ rằng hạnh phúc ở đâu? Sư tử mẹ nói: Hạnh phúc chính là cái đuôi của con vậy. Sư tử con bèn đuổi theo cái đuôi của nó để tìm hạnh phúc nhưng càng đuổi thì càng chạy vòng quanh mà không tới được. Có ngờ đâu hạnh phúc luôn đi cùng chúng ta nếu chúng ta biết tu tập đoạn trừ tham chấp và thực hành theo chính pháp, hay nói khác hơn là thực hành An Lạc Hạnh để có hạnh phúc luôn bên mình. Câu chuyện nhỏ nhưng bài học lớn, Hạnh phúc chính là khi ta ngẩng cao đầu tiến về phía trước, bước đi bằng đôi chân vững chãi của mình trên con đường đạo lý chính pháp thì hạnh phúc đang tiến theo ta, và thậm chí nó còn đi trước đón đầu mà ta thì chưa kịp nhận ra được. Bằng những lời dạy của Phật trong phẩm An Lạc Hạnh với những ẩn dụ sâu xa đã giúp cho chúng ta thấy được muốn được An Lạc Hạnh Phúc không gì khác hơn tu tập những pháp trên đó. Do vậy mà phẩm An Lạc Hạnh này không chỉ có ý nghĩa lớn cho những người thụ trì đọc tụng truyền bá Kinh Pháp Hoa trong đời sau mà nó còn có giá trị rất thực tiễn đó là đem lại an lạc hạnh phúc cho hết thảy mọi người trong xã hội. Đây có thể nói nó là giá trị đích thực và vô giá của Kinh điển nói chung và cũng là của Phẩm này nói riêng.

Mai đây Tăng ni sinh trẻ chúng con mang trên vai sứ mệnh Như Lai dấn thân về những vùng quê xa xôi, bao kiến thức cũng như kinh nghiệm của quý ngài truyền trao suốt bốn năm qua sẽ là tư lương và hành trang cho chúng con trong cuộc hành trình “Tác Như  Lai xứ, hành Như Lai sự”. Nguyện vọng quý Ngài muốn chúng con “Tục Phật Huệ Đăng” “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức” nhưng Phật Pháp thì vô biên, vô lượng ví như nước của đại dương, sức hiểu biết của con như hạt cát trên sa mạc. Đối với con suốt chặng đường học Phật nhưng khả năng cũng còn kém, việc trình bày cũng gặp nhiều khó khăn vì bổn phận của một Tăng ni sinh đồng thời thể hiện tinh thần tu học hầu đáp lại một phần tứ ân sâu lặng trong muôn một. Do đó con cố gắng tận dụng những kiến thức cùng những sự học hỏi qua thực tế. Vì vậy khi đặt bút viết trên trang giấy đầu tiên để trình bày chỉ là những cành hoa tư tưởng mà con đã góp nhặt đó là kết quả trong sự thâm cứu.

“Ra đường nhặt cánh hoa rơi

Hai tay nâng lấy của người mới ta”

Dù con cố gắng hết sức mình nhưng cũng không sao tránh khỏi lỗi lầm, những ý nghĩ vụng dại, do sự hiểu biết chưa thông, nghiên cứu chưa thấu, kính mong chư Tôn đức cùng thiện hữu tri thức hoan hỷ cho con đồng thời chỉ dạy những điều sơ sót ấy cho con.

Con nguyện đi theo con đường mà quý ngài đã đi, tiếp tục sự nghiệp mà quý ngài đã làm để thắp lên ngọn hải đăng làm lợi ích cho mình cho người và xã hội. Kết quả mà con thành đạt trong cuốn luận văn này là niềm hạnh phúc lớn nhất của con. Con xin thành kính tri ân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. HT Thích Minh Châu, Kinh Pháp Cú, Phẩm An Lạc.
  2. TT Thích Thanh Đường, Tài Liệu Pháp Hoa.
  3. Thích Trí Giải, Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo. https://thuvienhoasen.org.
  1. Kinh Pháp Hoa, Phẩm An Lạc Hạnh, Thiền Viện Thường Chiếu. http://thuongchieu.net.
  1. HT Tuyên Hóa, Kinh Pháp Hoa Lược Giảng – Phẩm An Lạc Hạnh. http://vanphatthanh.org.
  1. PGS, PTS. Nguyễn Tấn Hùng, Về vấn đề mưu cầu hạnh phúc cá nhân và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta hiện nay, Tạp chí Triết học.
  2. Tác giả: Mahà Thông Kham Medhivongs, Hiệu đính: Minh đức Triều Tâm Ảnh, 38 Pháp Hạnh Phúc.
  3. Thiện Phúc, Từ Điển Phật Học. http://tuvientuongvan.com.vn
  1. HT Thích Trí Quảng (1999), Lược Giải Kinh Pháp Hoa, NXB – TP.HCM.
  2. Lê Sỹ Minh Tùng, Kinh Pháp Hoa Giảng Giải, Phẩm An Lạc Hạnhhttps://thuvienhoasen.org
  1. HT Thích Thanh Từ, (2009), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, NXB Tôn Giáo.

Và các tác phẩm tài liệu khác.