CHÙA KẺ SẶT – ÂM VANG VỊ ĐẠO Ý ĐỜI

20/ 04/ 2018 16:33:22

 

CHÙA KẺ SẶT – ÂM VANG VỊ ĐẠO Ý ĐỜI

                                                 Thin Tâm

          Thoáng trên ngọn cỏ cành cây đón gió xuân về – giữa mảnh đất Hải Dương tràn đầy phong sắc nên thơ –  ta bắt gặp một ngôi già lam cổ tự uy linh hiện hữu đó  là chùa Kẻ Sặt, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Xuôi dòng sông Sặt, dọc theo quốc lộ 5 (Hà Nội – Hải Dương) sang quốc lộ 38, đến ngã ba Sặt rẽ phải vào mảnh đất “Rồng chầu Hổ phục” – “Tiền thuỷ hậu sơn” thẳng tiến là dẫn đến ngôi Đại hùng Bảo điện Kẻ Sặt Thiền tự – Nơi sâu lắng giữa dòng đời xuôi ngược.

Hai từ “Kẻ Sặt” không chỉ thiêng liêng trong tâm khảm và trái tim của những người con Kẻ Sặt mà đối với nhiều người trong nước cũng như hải ngoại, nó cũng trở nên hết sức gần gũi thân thương.

Vốn từ lâu, người ta đã biết đến địa danh Kẻ Sặt, biết đến vùng đất từ ngàn xưa cho đến hôm nay còn lưu dấu nhiều truyền thống tự hào của dân tộc, biết đến bánh đa đất Kẻ thẫm đẫm hương vị ngọt ngào của tình người một nắng hai sương. Và người ta còn biết đến nơi đây là miền đất có bao biến đổi thăng trầm của lịch sử.

Hai từ “Kẻ Sặt” có nguồn gốc từ các nhà truyền giáo Tây Ban Nha dùng để gọi làng “Tráng Liệt Bình” – Được phát âm nguyên bản là “Kẻ Sáp”, nhưng vì người dân phát chệch âm mà dần dần thành tên “Kẻ Sặt”.

Nói đến Kẻ Sặt là nói đến Công giáo, nói đến những lễ hội sắc màu mang đậm nét Đức Chúa trời. Song từ  xưa cho đến hôm nay, trên mảnh đất Kẻ vẫn còn dấu tích – nền móng rêu phong của một ngôi già lam cổ tự lâu đời. Đến những năm 90 của thế kỷ trước, khi người dân tiến hành đại trùng tu ngôi  “Phạm Vũ” thì đất Kẻ Sặt không còn riêng là vùng đất của người Công giáo. Một ánh sáng từ bi trí tuệ của Đức Phật đủ để hun đúc lên ngôi Đại hùng Bảo điện – “Kẻ Sặt Thiền Tự” lại càng làm cho vùng đất này trở nên hiền hoà thanh bình ấm áp hơn bao giờ hết. Cũng chính vì vậy, bên cạnh Nhà thờ Kẻ Sặt còn có ngôi Đại hùng Bảo điện – Kẻ Sặt Thiền tự, mà người dân nơi đây thường gọi bằng hai từ thiêng liêng nhất của quê hương mình: Chùa Kẻ Sặt.

Tương truyền từ rất xa xưa cách đây nhiều năm, dân làng đã xây dựng ngôi chùa làng uy nghiêm bề thế. Tại thời điểm đó, người dân thuần tuý theo Phật giáo. Chùa làng vừa là nơi nuôi dưỡng tâm linh vừa là trung tâm sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Song do thời gian bào mòn, chiến tranh tàn phá, ngôi “Phạm Vũ” vì thế mà bị ảnh hưởng chỉ còn lại phế tích nền móng và trong ký ức người dân về một thời đã qua.

Người dân Kẻ Sặt đa phần theo Công giáo, tuy vậy dù Lương hay Giáo thì truyền thống văn hoá dân tộc vẫn luôn chảy trong mạch nguồn trái tim của mỗi người con Kẻ Săt, truyền thống gắn liền với văn hóa – lịch sử Phật giáo ấy xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại hôm nay. Ngày 19/08/1991 nhân dân Kẻ Sặt, Tráng Liệt tiến hành trùng tu Ngôi “Phạm Vũ” lần thứ nhất. Vì điều kiện kinh tế còn hạn chế, lần trùng tu chùa thứ nhất này mới được phần nào, chưa đủ  cơ sở hạ tầng để phục vụ tu tập, tín ngưỡng nhân dân.

Đại đức trụ trì là một vị tăng trẻ đầy nhiệt huyết và hoài bão lớn lao, với tâm nguyện của người con Phật “hành Như­ Lai sự tác Như­ Lai sứ” sau khi tốt nghiệp chương trình đào tạo hệ cử nhân Phật học, được sự quan tâm tạo điều kiện của Giáo hội, Đại đức tiếp tục đi du học nghiên cứu chuyên ngành Phật học tại Ấn Độ. Sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học Đại đức trở về mảnh đất Kẻ Sặt thân yêu đã mang nhiệt huyết và những kiến thức đã được học bắt tay ngay vào công việc làm thủ tục, tham khảo và vẽ thiết kế chuẩn bị trùng tu tôn tạo chùa Kẻ Sặt lần thứ hai.

Ngày 04 tháng 10 năm 2008, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo tín đồ Phật tử, được sự ủng hộ, phát tâm của nhân dân và chính quyền, Đại đức trụ trì Thích Thanh Toàn cùng nhân dân Kẻ Sặt đứng lên tiến hành đại trùng tu toàn bộ chùa Kẻ Sặt lần thứ hai. Đến ngày 21/12/2009 Công trình đại trùng tu chùa Kẻ Sặt đã được hoàn thành.

Chùa Kẻ Sặt được xây dựng trên cơ sở giữ gìn bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá Phật giáo truyền thống Việt Nam.

Vì điều kiện đất đai nơi đô thị, chùa được xây dựng hai tầng. Tầng trên thờ Phật, tầng dưới là nơi sinh hoạt, tu tập.

Bố cục chùa được thiết kế theo kiểu chữ Công, phía trước là thượng điện, phía sau là nhà thờ Tổ, nối liền với nhau bằng ba gian ống muống.  Kiến trúc chồng diêm tám mái kiểu “Tàu đao mái hiên” có cổ diêm cao vừa đủ, bao gồm nhiều cột đỡ chạy dài, phía trên mái chảy ngói mũi hài, đường cong mái đao đắp phù điêu rồng chầu hướng về thượng đỉnh. Tổng cộng có “Tam thập nhị long chầu Kẻ Sặt Thiền tự”, cộng với bốn linh vật, hiệu chùa tại đỉnh tượng trưng cho 37 phẩm trợ đạo Phật giáo.

Phía bên trong chùa có 13 gian, bao gồm năm gian Thượng điện, ba gian ống muống, năm gian hậu cung. Hệ thống cột đan xen vào nhau tổng cộng có 60 cột phân chia thành 24 cột cái – 36 cột quân. Tường ghép ván gỗ, nền chạy ván gỗ.

Bên trong chùa kết cấu theo kiểu kiến trúc truyền thống cổ truyền lộng, tàn, chồng giường, kẻ truyền, đấu sen – Thượng chồng giường con nhị, hạ giường nách ván hiên, giá chiêng kẻ suốt, được thiết kế bằng các loại gỗ đinh, lim, sến, táu v.v kết hợp với gam màu nâu gụ, bố cục hài hoà, hợp lý tạo ra không gian hết sức ấm cúng đầy thi vị Thiền.

Hệ thống tượng thờ trong Chính điện được thiết kế theo bố cục truyền thống của các chùa miền Bắc. Phía trên cùng có Bộ tượng Tam Thế (quá khứ, hiện tại, vị lai), tiếp theo là Di Đà Tam Tôn, tả Thánh hiền, hữu Đức ông, Hộ pháp thiện ác …

Bên ngoài chùa có hành lang chạy xung quanh bao gồm 48 cột đá vuông thắt cổ bồng chạm nổi cánh sen khắc câu đối chữ Hán. Lan can đá được ghép bằng 108 bức phù điêu truyền tải giáo pháp giải thoát của 108 Đức Phật. Thẳng giữa chính điện phía hai bên có hai cầu thang đá tháp đỉnh đèn gấp khúc vào phía trong nội tự diễn tả ý nghĩa “Trung đạo” của pháp “Tối vi tiệp kính”, nối với tầng dưới và gặp nhau ở lối đi trục giữa thông trước sau. Thiết kế này là biểu tượng của “Bách pháp minh môn” “Tam thừa hiển nhất quy chân”. Theo các nhà phong thuỷ kiểu bố cục trên là phù hợp với thế đất và không gian quanh chùa.

Từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, hàng ngày, tiếng chuông chiều mõ sớm vang vọng chan hoà với tiếng chuông nhà thờ tạo nên âm vang như tấu lên một khúc nhạc an lành mà dường như đây là một trong những nơi hiếm có. Âm thanh ấy vang lên không chỉ chứa đựng ý đạo sâu sắc mà ý đời cũng thật thấm thía sâu xa. Nghe kĩ, ngẫm kỹ nhiều lúc ta cứ ngỡ đó như một tấm lưới đa năng đang gạn lọc đi những bụi bặm ưu phiền đầy tăm tối si mê, như một chất xúc tác gạn đục khơi trong giữa cõi đời còn nhiều ô trọc; người và cảnh nơi đây như gạch nối giữa sự Nóng – Lạnh, Đất – Trời, tạo nên một bức tranh nền nã mà thanh cao, đậm đà giá trị nhân văn Chân – Thiện – Mĩ.

Không biết xuất phát từ truyền thống, từ tôn chỉ đạo, hay từ nhận thức văn minh, nhưng những người dân ở đây, dù Lương hay Giáo, họ sống thật thân thiện, thân thiện đến mức dường như đến đây ta chỉ còn bắt gặp một cái duy nhất: an vui – chan hoà – nhân ái. Các Phật tử có thể đến nhà thờ tham quan, giao lưu như những người giáo dân. Các giáo dân có thể đến chùa như những người Phật tử bình thường.  Đặc biệt xung quanh chùa đa phần là những gia đình công giáo sinh sống. Chắc mọi người sẽ hỏi: Cách cư xử của họ ra sao? Kỳ thị hay không kỳ thị? Không! Không đâu, thưa bạn! Người Công giáo ở đây rất văn minh lịch sự. Nhiều người trong số họ đã thấm thía được giáo lý từ bi của Đức Phật mà quy y Tam Bảo. Nhiều người vẫn giữ truyền thống tôn giáo cũ, nhưng mỗi khi chùa có việc thì thật là một điều bất ngờ: giúp đỡ các công việc tại chùa lại có cả những thanh niên nam, nữ Công giáo.

Qua những điều cảm nhận được từ các Phật tử, từ thầy trụ trì, từ các sư, họ đã hiểu ra giá trị của Đức Phật hoàn toàn thánh thiện, đó là một ngọn nến muốn thắp sáng, muốn chiếu soi, muốn cho cuộc đời và con người trở nên tốt đẹp hơn, gắn kết hơn. Bởi vậy khi đến chùa Kẻ Sặt thật khó phân biệt những người ra lễ chùa ở đây họ là Phật tử hay giáo dân. Ta cũng thấy rất nhiều người là Phật tử có dịp đi thăm nhà thờ, họ vẫn làm dấu Chúa xưng “A men”.

Chân lý cuối cùng Đức Phật tuyên bố đó là chân lý của ánh sáng từ bi giải thoát. Ánh sáng và chân lý thì vốn tồn tại ở mọi chỗ, mọi nơi, trong mọi thứ mà Phật thường gọi là “Như Thị”. Phải chăng người dân Kẻ Sặt đã phần nào gạt bỏ đi được cuộc sống ảo, nhận biết được giá trị thực của cuộc sống chân thực. Cái chân lí họ nhận biết không còn tồn tại ở các khái niệm thông thường “Chúa” hay “Phật” hay những phạm trù cao siêu nào khác. Chân lí ấy được sáng tỏ một cách đơn giản bởi sự đối sánh hai phạm trù Thiện – Ác, nó hằng được thể hiện sống động trong cuộc sống bằng hai chữ “Tình người”. Điều này tuy chưa thể đạt đến mức tuyệt đối nhưng thực sự cũng là điều rất đáng quý, rất đáng ca ngợi. Chẳng vậy mà nhiều khi các sư vào Nhà thờ Kẻ Sặt thăm quan, nhiều giáo dân họ rất niềm nở, lúc gọi “Thầy” xưng con, lúc gọi “Cha” xưng con.

Một lời chào, một từ tôn xưng, không phải là quay lại với truyền thống hay đề cao tôn giáo nào mà là thể hiện một bước tiến mới của thời đại trên nền tảng truyền thống vững chắc, một xu thế hướng đến một xã hội an hoà thực sự. Nó đã phá đi những mặc cảm, những chấp trược đời thường để rồi chỉ còn đọng lại những giá trị tinh hoa.

Quả thực, ở đâu đâu, dù trên khắp nẻo đường thôn quê đất Việt hay trên khắp các vùng năm châu trên thế giới, con người, dù là ai đi chăng nữa, dù theo đạo nào, dù có đạo hay không có đạo, mọi người cứ chan hoà, chan hoà, thân thiện, thân thiện như người dân Kẻ Sặt thì cuộc sống – xã hội thanh bình biết bao.

Chùa Kẻ Sặt, vùng đất gắn liền với những sự kiện của Công giáo lại phát tích lên đoá sen thơm – Kẻ Sặt Thiền tự. Đất văn minh – nơi hun đúc hồn thiêng sông núi – con người Lương – Giáo thân thiện chan hoà cùng chung xây cuộc sống tương lai. Mỗi khi ánh bình minh lên, mỗi khi chiều về tiếng chuông chiều mõ sớm chan hoà trong tiếng chuông nhà thờ ngân vang đã tạo nên giai điệu ngọt ngào chứa đầy vị đạo ý đời. Ta hãy đến đây, đến Kẻ Sặt lắng lòng nghe những âm thanh đến nao lòng người đó, và rồi hay để nó bay xa đến mọi chân trời./.