Tư tưởng Phan Bội Châu về Phật giáo thời kỳ ở Huế

20/ 04/ 2018 16:49:17

Tư tưởng Phan Bội Châu về Phật giáo thời kỳ ở Huế

                                                        PGS, TS. Đỗ Thị Hòa Hới

                                                         Nguyễn Khắc Sâm

Phan Bội Châu (1867-1940) là nhà yêu nước, nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa trong lịch sử cận đại Việt Nam. Ông là dấu nối giữa tư tưởng văn hóa truyền thống với tư tưởng văn hóa hiện đại của Việt Nam. Vì thế đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về Phan Bội Châu từ nhiều góc độ, lịch sử, văn học, văn hóa, tư tưởng triết học… Riêng trong lĩnh vực tôn giáo, tư tưởng của ông chưa được nghiên cứu nhiều và còn có những nhận định đánh giá chưa thống nhất. Tư tưởng Phan Bội Châu về tôn giáo tuy chưa thành hệ thống nhưng không kém phần tiêu biểu, đặc sắc và hàm chứa nhiều nội dung, ý nghĩa sâu sắc. Do đó, việc tìm hiểu tư tưởng của ông trên lĩnh vực này vừa là một nhu cầu, vừa là một công việc có ý nghĩa. Trong bài viết này chúng tôi tập trung đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng tôn giáo của Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế (1925-1940). Đặc biệt, làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo đối với Phan Bội Châu thời kỳ này.

Muốn tìm hiểu tư tưởng Phan Bội Châu về tôn giáo, trước hết chúng ta phải xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn tác động đến Phan Bội Châu. Như chúng ta đã biết, năm 1925 Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt đưa về nước. Chúng dùng nhiều thủ đoạn để tách người chiến sĩ lão thành khỏi phong trào cách mạng, cắt đứt quan hệ với quần chúng cách mạng. Nham hiểm hơn nữa, nhiều tên quan lại thực dân và tay sai còn tìm cách ve vãn, chăng ra xung quanh Phan Bội Châu một bức màn dối trá về tình hình phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới để lừa phỉnh, dụ dỗ ông thay đổi chính kiến. Đáng chú ý, thời kỳ này ở Huế đang nổi lên phong trào Chấn hưng Phật giáo thực dân muốn lợi dụng phong trào này để cản bước lan truyền của tư tưởng Cộng sản nhưng các nhân sĩ trí thức Phật tử yêu nước lại hướng phong trào theo tinh thần dân tộc, muốn chấn hưng nhằm cải tổ lại Phật giáo, phát huy những giá trị của Phật giáo, đặc biệt là nâng cao ý thức của Phật tử góp phần vào thức tỉnh nhân dân trước vận mệnh đất nước… Phan Bội Châu đã dành nhiều thì giờ sáng tác thơ ca, truyện kí, biên khảo sách nhằm kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết thương yêu nhau, tiếp tục vì sự nghiệp cứu nước diệt thù, tư tưởng về tôn giáo của ông đạt đến một số nội dung mới trong quan niệm về Phật giáo, là phản ánh điều kiện thực tiễn mới này.

Sapo : Đáng chú ý, thời kỳ này ở Huế đang nổi lên phong trào Chấn hưng Phật giáo thực dân muốn lợi dụng phong trào này để cản bước lan truyền của tư tưởng Cộng sản nhưng các nhân sĩ trí thức Phật tử yêu nước lại hướng phong trào theo tinh thần dân tộc, muốn chấn hưng nhằm cải tổ lại Phật giáo, phát huy những giá trị của Phật giáo, đặc biệt là nâng cao ý thức của Phật tử góp phần vào thức tỉnh nhân dân trước vận mệnh đất nước.

Phan Bội Châu bàn nhiều đến Phật giáo, tới những yếu tố giáo lý của Phật giáo còn phục vụ cho quyền lợi dân tộc, tư tưởng bình đẳng, hướng thiện, từ bi, hòa bình…của Phật giáo có sự phù hợp tương đồng thuận lợi cho công cuộc cách mạng. Tiếp nhận quan niệm Phật giáo Phan Bội Châu nói nhiều đến ý thức về bản sắc văn hóa phương Đông, niềm tin vào các giá trị tinh thần chủ thể…Tất cả các nội dung tư tưởng đó của Phan Bội Châu đều nhằm đoàn kết kêu gọi tinh thần nhân đạo của nhân dân đối con người, trách nhiệm với vận mệnh dân tộc.

Chủ đề tư tưởng về Phật giáo ở Phan Bội Châu đầu tiên chúng ta có thể thấy, đó là tấm lòng ” thương người”,”nhân ái” bao dung và rộng lớn biết ngần nào, những lời ấy ông đã tâm huyết cất lên thành lời ca tiếng hát, ông nhắc nhở phải khuyên bảo nhau, phải khắc cốt ghi tâm, phải “đinh ninh vào dạ”. Là nhà Nho yêu nước chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo nên ông cho rằng: Nhớ nghĩ để mà tu thân, sửa đổi chớ có làm ác. Thiện ác phân minh đừng có ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau, khuyên mọi người sống cho đạo đức, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đây là đạo lý của con người, là tôn chỉ của cuộc sống. “Nhân ái”, “từ bi ” không chưa đủ, phải hiếu kính với ông bà, cha mẹ, tổ tiên; đây là đạo lý truyền thống. Nếu nhân ái được hiểu theo tinh thần “từ bi” của đạo Phật thì “hiếu kính là tâm Phật”. Vì sao vậy? Phật giáo chủ trương rằng “gặp thời không có Phật thờ cha mẹ chính là thờ Phật”. Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Phan Bội Châu viết:

Dòng thần giống thánh trên đời,

Hồn ta mong mỏi những người đời sau.

Muôn năm chữ hiếu làm đầu[1]

Có thể nói nhờ biết nắm bắt phép biện chứng phương Đông, Phan Bội Châu đã đặt ra những vấn đề thức tỉnh con người đừng vì lợi, ham lợi dục trước mắt, mà cần nắm bắt được quy luật đổi thay của trời đất, thế sự cần làm gì! Phải làm gì! và sẽ làm gì! Theo ông “phải theo thế lựa chiều mà đổi mới”. Tư tưởng của Phan Bội Châu hướng đến sự canh tân đổi mới, tinh thần cách mạng muốn thay da đổi thịt, diện mạo của đất nước ngày một văn minh hơn. Tâm ấy của Phan Bội Châu thật là đáng quý biết bao. Nó là sự hòa trộn giá trị nhân văn, nhân đạo của Nho – Phật – Lão:

Buồng ngục tối cậy ai cầm đuốc rọi?

Nhờ Phật từ bi, nhờ thần chính trực,[2]

Nguồn gốc nguyên nhân của nghèo đói dẫn đến ngu dốt đó cũng là nguồn gốc nảy sinh nhu cầu tìm đến tôn giáo, ông vạch trần chính sách ngu dân của thực dân Pháp :

Vì người ngu dốt,

Nên nỗi đói nghèo.

Vì đã đói nghèo,

Nên càng ngu dốt.[3]

Muốn thoát khỏi cảnh ngu dốt và đói nghèo thì phải lấy việc học làm đầu. Ông lấy câu tục ngữ “Ăn vóc học hay” động viên, khuyến khích mọi người phải ra sức học tập, trên dưới đồng lòng, chung sức chung lòng diệt giặc nghèo thì phải diệt giặc dốt. Ông cho rằng, Phật giáo chủ trương phát huy trí tuệ của chủ thể con người là rất chánh tín, Phật giáo không tán thành mê tín.

Trong tác phẩm “Dân trí nước ta thật đáng thương” Phan Bội Châu phê phán việc cưới xin rườm rà, đình đám lôi thôi. Quan niệm của ông về lễ nghi cúng bái sao cho trang nghiêm thành kính, phải thành tâm “tấm lòng son” mới được chứng trì. Chứ không phải cỗ bàn đầy mâm. Ông chủ trương khuyến khích mọi người hãy chăm lo cho nhau lúc sống, phải tỏ lòng hiếu kính lúc sinh thời, chứ không phải đợi đến lúc mất rồi bày ra tế lễ thật là vô bổ, ảnh hưởng đến cuộc sống kinh tế gia đình:

Những đền miếu nọ lại chùa chiền kia

Thần Phật há như bề xác thịt,

Thần là hồn mà Phật là tâm

Xôi bò trâu thịt um xùm,

Sát sinh, tao nghiệt nhân tâm là gì?

Đạo Thần Phật nghi nghi ngút ngút,

Há thịt xôi đâm đút mà xong?

Không Thần, thời tế: nên không?

Nếu thần mà có nên dùng tế chay

Cốt bụng kính, lòng ngay hơn cả,

Một cây hương, Thần đã soi thành

Mượn thần ăn uống linh đình,

Thần thêm căm giận thôi đành rước tai![4]

Ông nhận thấy vì dân trí thấp, nhận thức không cao cho nên bày biện cúng tế phiền phức gây ra những điều vô bổ. Ông đã sử dụng quan điểm “sát sinh tao nghiệt nhân tâm là gì”để khuyên bài trừ tế lễ. Đây là tinh thần từ bi, bình đẳng, không nên sát sinh hại vật để cúng tế Thần Thánh. Quan điểm “tao nghiệt” ấy khuyên mọi người nên “tế chay” mà lòng thành tâm thì việc sẽ đạt như ý nguyện. Vì lợi ích chung của đồng bào, ông chủ trương xây dựng cuộc sống hướng thiện, từ tâm sao cho tròn đạo lý làm người. Ông theo tinh thần tiếp thu và có phát triển các giá trị nhân văn, nhân đạo từ bi, bố thí của nhà Phật, nhà Chúa, nhà Thánh thương người như thể thương thân, “Ái nhân như kỷ “. Đây là một quan niệm “siêu tôn giáo” Phan Bội Châu, không trực tiếp bàn đến sự đúng sai của thế giới quan tôn giáo nhưng khuyến khích mọi người sống theo tinh thần nhân sinh quan hướng thiện của tôn giáo: từ bi, bố thí, tinh tấn, làm lành, tránh dữ…

Sapo: Đây là một quan niệm “siêu tôn giáo” Phan Bội Châu, không trực tiếp bàn đến sự đúng sai của thế giới quan tôn giáo nhưng khuyến khích mọi người sống theo tinh thần nhân sinh quan hướng thiện của tôn giáo: từ bi, bố thí, tinh tấn, làm lành, tránh dữ…

Ông đã hiểu xã hội Việt Nam lúc này thật đáng thương, đang chìm trong bóng tối của sự đọa đầy đau khổ. Từ thực tế ấy, sống giữa đất thần kinh Huế, cuộc sống tâm linh ấy đã chi phối cuộc sống đời thường của con người là điều dễ hiểu:

Biển khổ cả trời đang nổi sóng

Thiên đường há phải ở trần gian.[5]

 

Ở đây Phan Bội Châu đã tiếp nhận quan niệm “biển khổ”của Phật giáo, “đời là khổ”, “sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cầu bất đắc khổ, oán tằng hội khổ, ái biệt ly khổ…” Nỗi khổ này chồng chất lên nỗi khổ khác. Hoàn cảnh chiến tranh, chết chóc, loạn ly đang hoành hành  người Việt nói riêng và các dân tộc bị nô dịch áp bức trên thế giới nói chung. Trông ngày chờ vào chốn thiên đường của Thiên Chúa cũng còn rất xa xôi, chờ đến ngày vui cũng rất mơ hồ. Hoàn cảnh đen tối như không có đường ra.

Mặt khác, Phan Bội Châu tiếp thu tư tưởng “vô trụ””Kim Cương” của Phật giáo, quan niệm về quy luật tồn tại, vận động của sự vật hiện tượng và động viên mọi người tin ở sự đổi mới:

Phàm vật hữu hình giai hữu hoại

Một nắm xương nuôi mối có gì gì!

Chả bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày;

Trăm tuổi cũng không hơn gì chốc phút.

“Phàm hữu sở tương giai thị hư vọng” (Kinh Kim Cương) ở đây Phan Bội Châu đã tiếp thu và vận dụng một cách nhuần nhuyễn, ông thay từ, chữ để cho dễ hiểu hơn. Câu này được hiểu rằng “Phàm vật gì có hình tướng đều là hư hoại cả”.

Đây là quy luật “sinh, trụ, dị, diệt” (Sinh thành tồn tại, hư hoại biến đổi rồi bị tiêu diệt trở về trạng thái không) của Phật giáo. Đây cũng là quan niệm về “sắc, không” của vũ trụ vạn vật; sắc tức là không, mà không chính là sắc, có không, không có, ẩn hiện, hiện ẩn… Sự biến chuyển thay hình đổi dạng đó khiến chúng ta nhiều lúc bị mắc kẹt đó cho là còn (cố chấp, giữ lấy, bảo thủ) cho là mất (diệt vong, phủ nhận, quên lãng, bỏ qua).

Phan Bội Châu nhìn nhận một cách khá hoàn hảo về quy luật vận động sinh tử, sinh là tử, mà tử là sinh, trong sinh có tử trong tử có sinh, ảnh hưởng của quan niệm Phật giáo, nhưng để hướng mọi người đến cái nhìn tự tại, an nhàn:

Sinh là tử, mà tử cũng là sinh,

Toan bất tử phải bất sinh là trí tuyệt.

Xem vô số thánh hiền hào kiệt,

Trên sử xanh chưa thấy chết là ai.[6]

 

Trong điều kiện tù túng, quan niệm sống chết của Phan Bội Châu thật tiến bộ, tư tưởng sinh tử ấy rất gần với Phật giáo, mà cũng rất gần gũi với đời thường. Phan Bội Châu đã không nâng con người sinh tử lên bất tử, Thần Thánh hóa Thánh Thần, mà tự tìm ra cho mình một phương thức sống sẵn sàng xả thân cứu vớt dân, cứu vớt đất nước đó là lý tưởng nhân sinh của ông:

Dẫu chẳng Phật cũng xả thân vì đại chúng.

Ai pháo nổ, ai nêu cao, ai hương dâng hoa cúng?

Tấc son mình e cũng thấu thần minh.[7]

Phan Bội Châu thành tâm dâng tấm “lòng son” thành kính cầu Thánh, Phật chứng tri, sự “xả thân” của ông “vì đại chúng”. Đó là việc Phật, là Phật sự rồi, phải có tâm Phật mới dấn thân vào làm việc Phật vì đại chúng (lòng từ bi của ông muốn cứu độ hết thảy mọi người). Nếu không xuất phát từ tâm từ bi vô ngã vị tha ấy thì làm sao ông có thể xả thân được. Phan Bội Châu cho rằng với lý tưởng, yêu dân, yêu nước quên mình của những người xả thân ấy họ là sứ giả của Như Lai, là những người đệ tử chân chính nhất của Phật, là những cánh tay nối dài của Phật, những người đáng kính, đáng hàm ơn. Đấy chính là sự đồng hành đạo đức nhà Phật với dân tộc:

Sapo: Nếu không xuất phát từ tâm từ bi vô ngã vị tha ấy thì làm sao ông có thể xả thân được. Phan Bội Châu cho rằng với lý tưởng, yêu dân, yêu nước quên mình của những người xả thân ấy họ là sứ giả của Như Lai, là những người đệ tử chân chính nhất của Phật, là những cánh tay nối dài của Phật, những người đáng kính, đáng hàm ơn.

Mình một bên quỳ, Phật một bên,

Dầu người chê đã có người khen

Mây còn lều cũ, trăng còn bạn,

Non ấy tình xưa, đã ấy duyên,

Cây sẵn bồ đề, hương ấy ngát,

Đài treo minh cánh, bụi nào đen?

Ai ôi mưa gió dường như mực,

Nhờ bước Quan Âm dọi bóng đèn.[8]

 

hay:

Tức tối hôm khuya chửa thấy mai,

Trong vùng hắc ám những ai ai.

Đuốc nhen lửa tuệ khôn nhờ Phật,

Tia ánh vừng đông để ngó trời.[9]

 

Say non say nước lại say chùa,

Mến nước non càng mến cố đô

Đuốc tuệ lừng trời tà muội dẹp,

Gương khôn phất gió quỷ ma trừ.[10]

 

Vận dụng triết lý Phật giáo cho rằng cuộc đời là giả tạm, sống rày chết mai thật là vô cùng, sớm còn tối mất, đúng là “sinh có hạn tử vô kỳ”. Trăm năm là ngắn “cũng không hơn gì phút chốc”; Cuộc trần thế dường như ảo mộng. Phải tự nghĩ về mình sống sao cho có lý tưởng noi gương người anh hùng hy sinh vì dân, vì nước sống sao cho tròn đạo hiếu, đạo trung, sống nhân nghĩa sống trung dung. Chớ có tham đắm trong vòng danh lợi hão huyền, vì cuộc đời ta chỉ là gửi trọ. Phan Bội Châu viết:

Mây trần thế, nhóm tan, tan lại hợp.

Bóng phù sinh mai tối, tối liền mai

Quán càn khôn, trăm năm gửi trọ ấy là ai?[11]

 

Ở Huế, Phan Bội Châu suy ngẫm về cuộc trần thế tan hợp, hợp tan như bóng phù sinh mai còn tối mất, ai còn ai ở, ai trọ ai đi… Ông say tỉnh, tỉnh say, buồn thời cuộc, buồn nhân sinh buồn thất cơ lỡ vận, buồn dai dẳng có khi  mượn rượu để giải sầu, nhưng ai ngờ bệnh tật kéo theo. Nợ trần khó dứt, tu cho thành Phật khó biết bao:

Tưởng mướn thần men đuổi quỷ sầu

Lại e ma bệnh nó theo hầu

Một thằng ngất ngưởng đà như thế!

Hai đứa lôi thôi khéo bỡn nhau.

Mới biết thoát trần chưa dễ chóng,

Vậy nên thành Phật hãy còn lâu.[12]

 

Trong thơ ông cũng có Thần, có Quỷ, có Ma, có Phật, nhưng Thần, Phật, Quỷ, Ma ở đâu – tại tâm con người. Chính tâm, thiện tâm thì là tâm Phật, còn tà tâm, ác tâm là ma quỷ. Tâm từ bi, trí tuệ mới hiểu giải sinh tử giác ngộ giải thoát. Chớ sinh tâm phân biệt, thì khó mà nhận diện được chúng, vì thế không khỏi có lúc ông bi quan, bế tắc:

Nếu còn trời đất mà còn thế,

Cõi Phật ta đi thoát cõi phàm.[13]

Đọc nhiều thơ văn Phan Bội Châu viết thời kì này, ta thấy trong tâm thì ông bao lần băn khoăn trăn trở vấn đề sống và chết. Tâm ông bàng bạc một niềm tin tâm linh Á Đông- Việt Nam ở quan niệm “hồn” và “xác” thể hiện rất rõ sự dung thông Nho- Phật-Lão- Bản địa:

Đố ai sơn gắn hồn liền xác.[14]

Tâm ông hướng về Phật, chủ đề chùa Phật, Phật pháp rất phong phú, chứng tỏ Phan Bội Châu suy ngẫm và nghiên cứu về Phật Pháp cũng rất sâu. Vì vậy mà ông mới làm các bài thơ họa thơ Hàn Mặc Tử:

Ba vạn Giang Sơn chút tẻo teo,

Ai dè bể Phật đến nguồn đâu.

Kệ thần mặc ý trong lòng niệm

Đèn tuệ tha hồ trước gió khêu.

Bờ nọ thuyền đưa dòng họ tới,

Trời này mưa móc cỏ cây sầu.

Xưa nay Phật pháp vô biên lượng,

Muôn nước ngàn non một tiếng kêu.[15][16]

Chùa không sư tụng cảnh buồn teo,

Xác Phật còn đây hồn Phật đâu?

Réo rắt cành thông thay mõ đánh.

Lập lòe bóng đóm thế đèn treo.

Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác,

Vách chán đêm suông đứng dãi dầu.

Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt,

Trước  thềm khắc khoải giọng quyên kêu.[17]

Nhà Nho Phan Bội Châu lúc này chịu ảnh hưởng quan niệm: “Tâm tức Phật”, “Phật tức tâm”. Đó là  quan niệm của Phật giáo. Ngôn ngữ lời nói là sự tràn ra của tâm ý. Đọc thơ Phan Bội Châu ta thấy chữ “Phật” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, sự biến hóa một cách uyển chuyển. Có rất nhiều bài thơ ông đều mượn lời Phật, mượn hình tượng Phật để bày tỏ ý thơ, bày tỏ quan điểm, tâm trạng của mình. Chẳng hạn tác giả trồng một cây hoa hàm tiếu trước sân, hoa nó vàng nhạt mà thơm, thường lúc đêm khuya người vắng mùi thơm càng nồng, mà lạ nhất là hoa nó chỉ ngậm nụ cho đến khi kết quả mới thôi, người thưởng hoa chẳng bao giờ thấy lòng hoa. Ở trong lòng hoa như nó, có sắc mà chẳng lòe đời, có hương mà chẳng cần tục biết, có lẽ một mình bậc dật nhân ẩn sĩ ở trong loài hoa chăng? Ông tâm đắc viết:

Cười với ai hay khóc với ai?

Đành ngậm màu son chờ Phật nhả,[18]

Sapo: Nhà Nho Phan Bội Châu lúc này chịu ảnh hưởng quan niệm: “Tâm tức Phật”, “Phật tức tâm”. Đó là  quan niệm của Phật giáo. Ngôn ngữ lời nói là sự tràn ra của tâm ý. Đọc thơ Phan Bội Châu ta thấy chữ “Phật” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, sự biến hóa một cách uyển chuyển.

Tâm hướng về Phật cho nên khi gặp hạn lâu ngày mừng được mưa, tâm trạng như được ơn Phật :

Xoay trời một trận tay thần chuyển

Xối nước tư bề móc Phật tuôn.[19]

Bầu bạn với trời trên mặt nước,

Láng giềng cùng Phật dưới vườn non.[20]

Bài này Phan Bội Châu sáng tác để họa lại mấy bài thơ của Nguyễn Ngọc Dư. Vì nguyên văn các bài thơ của Nguyễn Ngọc Dư cũng có nhiều câu mượn ý Phật. Nhưng Phan Bội Châu khác về lòng yêu nước – yêu nước gắn hành động và cho rằng có sự khác biệt không thể lẫn lộn giữa Phật với ma, tiên với trần tục:

Thánh thần trời đất nguyên lai một.

Ma, Phật tiên, trần đáo để hai,[21]

Từ góc độ nhận thức luận sâu sắc về thế giới quan nhân sinh quan của Phật giáo, Phan Bội Châu đã nhận ra công cụ sắc bén nhất mà các vị thiền giả dùng làm vũ khí để diệt trừ ba độc tham, sân, si động viên các Phật tử đứng lên trừ ác độc:

Say non say nước lại say chùa

Mến nước non càng mến Cố Đô

Đuốc tuệ lừng trời tà muội dẹp,

Gương Khôn phất gió quỷ ma trừ.[22]

Phan Bội Châu thật là có nợ duyên với Phật, trong tâm tư của ông luôn hướng về Phật để xoa dịu khuây khỏa nỗi lòng. Trong hai câu đối ở chùa Từ Đàm, Huế ông viết:

Nghiệp duyên bình hợp, niên niên bạch phát thôi, đối diện tức không, ninh bã thiều hoa phó lưu thủy.

Thế sự kỳ phân, xứ xứ hoành lượng mộng, hồi đầu thị ngạn, nguyện tương bối diệp xuất ưu đàm.

Dịch nghĩa

Nghiệp duyên bèo hợp, năm năm tóc trắng, quay mặt là không, nỡ để tuổi xuân dòng nước chảy.

Thế sự cờ chia, nơi nơi kê vàng mộng, quay đầu là bến, nguyện đem lá bối dịch ưu đàm.

Trong thời kì bất đắc dĩ buộc phải làm “ông già Bến Ngự” này, Phan Bội Châu còn có nhiều bài thơ, bài báo ảnh hưởng của Phật giáo, nhiều bài Vịnh người, Vịnh cảnh, Vịnh vật… trong đó vẫn chứa đầy nhiệt huyết tâm tư, ưu ái đối với dân, với nước. Đối với Phật giáo cũng vậy bên cạnh những đóng góp của Phan Bội Châu ta vẫn thấy những nhận thức tư tưởng của ông vẫn còn bi quan hạn chế. Ta thấy Phan Bội Châu nhiều lúc có tâm trạng cô độc, bế tắc… đến phải thốt ra lời thơ:

Thôi thì tụng niệm “Nam mô Phật”

Sắc sắc không không khỏi lụy đời![23]

Sapo:  Trong thời kì bất đắc dĩ buộc phải làm “ông già Bến Ngự” này, Phan Bội Châu còn có nhiều bài thơ, bài báo ảnh hưởng của Phật giáo, nhiều bài  Vịnh người, Vịnh cảnh, Vịnh vật… trong đó vẫn chứa đầy nhiệt huyết tâm tư, ưu ái đối với dân, với nước.

Ông thương đời, thương người, thương cuộc sống đọa đầy vô lối thoát, thế thái nhân tình đen bạc. Lúc này chỉ có niềm tin tôn giáo, mới xoa dịu nỗi đau ấy. Quay về với “sắc sắc, không không” của Phật giáo là con đường của người anh hùng cái thế bất lực. Đó là sự bất lực, bế tắc trước những vấn nạn của cuộc sống, điều này cũng đúng với ông.

Bức tranh xã hội Việt Nam lúc này hiện lên thật u hoài, buồn héo hắt, nỗi trăn trở ấy luôn là gánh nặng cho những ai có tấm lòng vì dân vì nước.  Không biết tâm sự cùng ai “bèn tâm niệm”. Thế nhưng niềm tin tôn giáo cũng không cứu vãn được tình thế. Tâm trạng vô vọng, tuyệt vọng cùng đường:

Hổ cùng non sông, thẹn cây cỏ!

Nông nỗi nước này với ai tỏ?

Xuống am cầu Thần, Thần không thương!

Lên Chùa niệm Phật, Phật không độ![24]

hay:

Nếu còn trời đất mà còn thế,

Cõi Phật ta đi thoát cõi phàm.[25]

Như vậy tiếng nói của Phan Bội Châu tuy vẫn nặng lòng ái quốc, nhưng “đó là một phong trào ái quốc không có lối ra, uể oải, mệt nhọc”[26]. Nhiều lúc ông muốn mượn hình ảnh của Phật giáo để mong thoát khỏi trần thế, xa rời những mục tiêu cách mạng mà Phan Bội Châu từng theo đuổi. Thiếu đường lối, thiếu phương pháp, tác động xã hội của nó đương nhiên sẽ bị hạn chế.

Tuy còn hạn chế như vậy, nhưng lịch sử cách mạng Việt Nam vẫn ghi nhận Phan Bội Châu là một nhà yêu nước đã suốt đời cống hiến cho quyền lợi dân tộc. Những cống hiến của ông trong sự nghiệp trước tác về lĩnh vực tôn giáo, trong lĩnh vực đạo đức truyền thống còn có những nhân tố cách mạng đổi mới điều đó cũng đã góp phần làm rạng danh ông trong dòng chảy từ quá khứ truyền thống đến hiện đại cách mạng.

Tóm lại, ta có thể thấy trong tư tưởng của Phan Bội Châu, ông là nhà Nho yêu nước duy tâm nhưng thời kỳ này chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo, mặc dù tư liệu hiện còn lại không thành một tác phẩm chuyên biệt nói về Phật giáo (Phật học đăng bị thất lạc) nhưng từng ấy cũng đủ để cho ta biết lúc này trong quan niệm về các tôn giáo thì Phan Bội Châu có ảnh hưởng nhiều nhất của Phật giáo, ông tuyên truyền những yếu tố của Phật giáo còn tương đồng có thuận lợi cho cách mạng, có lợi cho công việc tuyên truyền lòng yêu nước đều được Phan Bội Châu khai thác một cách sâu sắc. Tuy nhiên, nhiều lúc ta cũng bắt gặp những yếu tố tư tưởng tiêu cực, bi quan, nhưng đó chỉ là phần rất nhỏ. Những hạn chế đấy do hoàn cảnh khách quan và hoàn cảnh bó buộc đem lại chứ trong thâm tâm Phan Bội Châu vẫn nguyện suốt đời cống hiến cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân tộc. Ngày nay, trên con đường hội nhập, người Việt Nam kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, có thể rút ra những bài học quý báu từ quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáo.

Sapo : Tóm lại, ta có thể thấy trong tư tưởng của Phan Bội Châu, ông là nhà Nho yêu nước duy tâm nhưng thời kỳ này chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo, mặc dù tư liệu hiện còn lại không thành một tác phẩm chuyên biệt nói về Phật giáo (Phật học đăng bị thất lạc) nhưng từng ấy cũng đủ để cho ta biết lúc này trong quan niệm về các tôn giáo thì Phan Bội Châu có ảnh hưởng nhiều nhất của Phật giáo, ông tuyên truyền những yếu tố của Phật giáo còn tương đồng có thuận lợi cho cách mạng, có lợi cho công việc tuyên truyền lòng yêu nước đều được Phan Bội Châu khai thác một cách sâu sắc.

 

[1] Phan Bội Châu, Toàn Tập, T8, Nxb Thuận Hóa, Huế 2001, tr 42

[2] Phan Bội Châu, sđd, tr 50.

[3] Phan Bội Châu, sđd, tr 53

[4]  Phan Bội Châu, sđd, tr 64

[5]  Phan Bội Châu, sđd, tr 308

[6]  Phan Bội Châu, sđd, tr 314

[7]  Phan Bội Châu, sđd, tr 321

[8]  Phan Bội Châu, sđd, tr 410

[9] Phan Bội Châu, sđd, tr 412

[10] Phan Bội Châu, sđd, tr 415

[11] Phan Bội Châu, sđd, tr 325

[12] Phan Bội Châu, sđd, tr 333

[13] Phan Bội Châu, sđd, tr 334

[14]  Phan Bội Châu, sđd, tr 334

[15]  Phan Bội Châu, sđd, tr 336

[16] Phan Bội Châu, sđd, tr 336

[17]  Phan Bội Châu, sđd, tr 344

[18] Phan Bội Châu, sđd, tr 345

[19] Phan Bội Châu, sđd, tr 346

[20] Phan Bội Châu, sđd, tr 353

[21]  Phan Bội Châu, sđd, tr 415

[22]  Phan Bội Châu, sđd, tr 302

[23]  Phan Bội Châu, sđd, tr 299

[24] Phan Bội Châu, sđd, tr 334

[25]  Chương Thâu : Phan Bội Châu nhà yêu nước, nhà văn hóa, Nxb Nghệ An, 2005, tr 198