GIỚI THIỆU CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP THIỀN SƯ TÍNH QUẢNG

11/ 11/ 2017 15:50:11

GIỚI THIỆU CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP

THIỀN SƯ TÍNH QUẢNG

 

NGÔ QUỐC TRƯỞNG

 

Thiền sư Tính Quảng Thích Điều Điều (1694-1768) là một cao tăng sống thời Lê Trung Hưng đồng thời là một tác gia văn học Phật giáo. Các tác phẩm của ngài để lại nhiều giá trị tư tưởng cũng như giá trị học thuật trong nền văn học Việt Nam. Thế nhưng, việc tìm hiểu hành trạng Thiền sư cũng như tác phẩm chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể. Các thông tin đưa ra chưa thật chính xác, nhất là về hành trạng Thiền sư.

Không phải là các tác phẩm của Thiền sư không được in ấn. Sau khi ngài viên tịch, các đệ tử đã đứng in Phật Quốc Ký truyện, Nam Tuần quốc ngữ khúc, Hiến Cổ Châu Phật Tổ Nghi. Riêng Nam Tuần quốc âm khúc trong Văn Thù chỉ nam đã được Thiền sư Từ Hòa Chiếu Thường (1765-1840) trụ trì chùa Khê Hồi trùng san. Còn Sa di ni quốc ngữ lại được luật sư Viên Giác trụ trì chùa Bổ, chùa Yên Ninh đưa vào Hành trì tập yếu chư nghi. Chưa nói các bài tựa trong các kinh sách, đã được các chùa in lại nhiều lần. Thế hệ truyền thừa cũng như tông phái do ngài truyền xuống được hòa thượng Phúc Điền chép ra trong Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ. Tam Tổ thực lục in lại vào thời cuối Nguyễn, lại được hội Phật giáo Bắc Kỳ đưa vào bộ Việt Nam Phật điển tùng san. Sau năm 1954, liên tổ văn học Việt Nam trường đại học sư phạm trong công trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 cũng có nhắc đến tác phẩm Phật Quốc ký truyện. Năm 1997, Nguyễn Quang Hồng chủ biên trong công trình Di Văn Chùa Dâu đã nghiên cứu ván khắc cùng bản in Hiến Cổ Châu Phật Tổ Nghi của Thiền sư Tính Quảng. Các công trình trên chưa đi sâu nghiên cứu tác giả cùng hệ thống tác phẩm của Thiền sư.

Từ thực trạng đó, chúng tôi công bố bài viết nhỏ nhằm nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp Thiền sư Tính Quảng. Công việc của chúng tôi là bước đầu thu thập tư liệu, giới thiệu tác phẩm mà chưa đi sâu vào tìm hiểu phân tích đánh giá tác phẩm cũng như tư tưởng.

  1. Tiểu Sử Thiền sư Tính Quảng (1694-1768)

Các tư liệu chữ Hán có liên quan đến hành trạng Thiền sư Tính Quảng rất nhiều, nhưng nổi lên vẫn là hai văn bia Thời Vũ Tháp Thiên Ân Tự Khai Sáng Tổ Sư Thực Lục (sau đây gọi tắt là Thực Lục) và Thiền Phong Tháp Ký. Ngoài ra, Thiền Uyển Truyền Đăng Lục bổ sung một số thông tin cũng như đưa thế hệ truyền thừa tông phái Thiền sư.

Thiền sư Tính Quảng sinh ra trong một gia đình truyền thống Nho học, bố họ Nguyễn, mẹ họ Lê. Ngài quê ở xã Phúc lai[1], huyện Gia Bình, trấn Kinh Bắc, bây giờ thuộc thôn Phúc Lai, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Các tư liệu không ghi lại thế danh của ngài, không hiểu vì lí do gì. Đạo hiệu của ngài là Thích Điều Điều, tôn xưng là Thượng Đức Tổ Sư, tự xưng là Vô Vật Sa môn[2], Hối Tích Tăng, Hối Tích Lão Phu, Tử Trầm Lão Nhân[3].

Trước lúc mang thai, mẹ ngài nằm mộng thấy ấn lớn liền có mang[4]. Thực Lục chép: “khi ngài sinh có điềm lạ, ban đêm ánh sáng đầy nhà”. Ngài sinh giờ Tuất, ngày 14 tháng 4 năm Giáp Tuất (1694)[5]. Ngài còn nhỏ không khóc, ba tuổi thường đi chơi cảnh chùa[6]. Năm 6 tuổi[7], cha mẹ cho đi học, ngài thông minh dĩnh ngộ, học biết hơn người. Năm Nhâm Thìn (1712)[8], gặp lúc dịch bệnh, Thiền sư vào ngụ tại chùa Phúc Khánh[9], thường nghe Thiền sư Tịnh Niệm ngâm bài kệ Chỉ giá sắc thân mà ngộ đạo. Lúc 19 tuổi, Ngài xin xuất gia với Tính Giác hòa thượng Như Nghiễm Thiền sư [10] thụ học đạo nghiệp, theo thầy hầu hạ được 3, 4 năm[11].

Năm Đinh Dậu (1717), ngài xin thầy du phương học đạo, tìm thầy hỏi bạn, xa nghe Thiền sư Như Văn (1655-1724)  đang hành hóa ở chùa Quang Khánh[12], huyện Kim Thành bèn đến qui tông tham cầu tâm yếu. Sau khi đắc chỉ, ngài phát nguyện thụ giới cụ túc với Thiền sư Vô Trụ[13]. Năm Nhâm Dần (1722), thầy trò cùng lên kinh ứng thí, tổ sư Như Văn được ban chức Tăng Phó, y tía, còn Thiền sư Tính Chủng, Tính Nhuế, Tính Quảng[14] thì được cấp độ điệp hành đạo. Năm sau, Thiền sư chính thức nhận điệp trụ trì chùa Diên Phúc[15], thôn Phí Gia. Thiền sư ở đây hành hóa rất được lòng dân, tiếp nhận học trò. Trụ trì được một năm (1724) thì bản sư Như Văn viên tịch, Tính Quảng về lo tang lễ cho thầy. Năm Bảo Thái 7 (1726), tưởng nhớ đến công ơn thầy tổ đã giáo dưỡng mình, Thiền sư Tính Quảng đứng in Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, trong đó cung tiến cho Thiền sư Như Văn, lúc này Thiền sư chưa thụ giới cụ túc, chỉ còn sa di[16].

Năm Canh Thân (1740) giặc nổi lên khắp nơi, nhận thấy nơi đây chưa được yên bình hành đạo, Thiền sư dẫn học trò lên Kinh ngụ tại chùa Nga Mi cùng đạo hữu Tính Hài. Năm Tân Dậu (1741), quốc mẫu cho về trụ chùa Phổ Quang[17]. Năm Nhâm Tuất (1742), ngài muốn về Sơn Tây làm bài kệ tạ ơn đạo hữu, sau đến trụ chùa Hoa vân, An Sơn.

Năm Quí Hợi (1743) ngài ở chùa Phàn Long. Năm Giáp Tý (1744), ngài kết hạ an cư trên núi Tử Trầm. Năm Ất Sửu (1745), lên chùa Khánh Vân, Phú Ổ. Năm Mậu Thìn (1748), ngài trở lại núi Tử Trầm kết am lập Viện Thiền Phong. Từ đó, sư tu hành khắc khổ, giới hạnh tinh nghiêm, không mong cầu danh lợi, đạo đức hoàn bị, tăng ni vân tập học đạo rất đông, sau này trở thành những bậc long tượng trong Thiền môn cũng một bề giáo hóa của sư. Năm Ất Hợi (1755), thôn miếu thỉnh sư trụ trì chùa, động Long Tiên. Năm Bính Tý (1756), đạo tràng Hải Dương thỉnh ngài về chùa Kim Âu, Việt Khê. Năm Đinh Sửu (1757), quận phu nhân họ Đặng tức Đặng Thị Huệ thỉnh sư trở về Tử Trầm. Trong thời gian tại núi Tử Trầm Thiền sư đã cho khắc in các tác phẩm như Hộ Pháp Luận[18], Thủy Sám Bị Giản, Kim Cương Quyết Nghi, Bát Nhã Trực Thuyết, Pháp Hoa Phẩm Tiết[19]. Đến năm Kỷ Mão (1759) Thiền sư cho phân phát lưu thông.

Trong các tư liệu ghi lại tiểu sư Thiền sư, chúng tôi ít thấy chép cảnh thầy trò đối đáp trong các Thiền đường, thể hiện một cách sinh động trong các tự viện thuở xưa. Thiền Uyển Truyền đăng lục mô tả một cách đơn sơ như sau: “Lúc đó, Thiền sư Hải Bật, chùa Càn An đến tham học. Tổ (Tính Quảng) bảo: “Ngươi học đạo gì?”. Bạch rằng: “Cầu đạo xuất thế”. Tổ bảo: “Ngươi là người thế gian, sao có thể cầu đạo xuất thế? Muốn cầu đạo xuất thế thì đến cảnh thánh Tây phương”. Sư ngay lời đó mà lãnh yếu chỉ, lễ tạ rồi lui ra”.

Đến năm Giáp Thân (1764) Thiền sư được 71 tuổi, lúc này đạo phong ngài tỏa sáng khắp nơi, dân làng Phúc Lai bèn đến viện Thiền Phong cung thỉnh ngài hồi hương sáng lập tự viện để nhân dân cùng tu học. Sư nghĩ rằng Phúc Lai chính là nơi mình sinh ra và trưởng thành, nếu lập chùa chính là nền tảng muôn đời. Do thế, Thiền sư không từ thân mệt mỏi mà nhận lời thỉnh cầu. Năm Ất Dậu (1765) Thiền sư dẫn đồ chúng về quê, còn một số đệ tử ở lại trông coi viện Thiền phong. Lúc đầu, Thiền sư bỏ tiền ra lo mua những gỗ tốt, cưu công tạo lập tiền đường, thiêu hương, thỉnh tôn tượng về an vị, cho trồng cây xung quanh tạo nên một già lam trang nghiêm, đặt tên là Thiên Ân tự[20], xây viện Thời Vũ, đào tạo đồ chúng.

Công thành hạnh mãn, Thiền sư thị tịch giờ Dậu, ngày 13 tháng 5 năm Mậu Tý (1768), thọ 75 tuổi. Theo lời dặn dò của sư, đệ tử để trong ba ngày, sau đó trà tỳ thu xá lị dựng tháp Thời Vũ phía nam chùa, hương hỏa phụng thờ. Theo Thiền Phong tháp ký ghi lại ngày mồng một tháng 10 năm Kỷ Sửu (1769) sau khi trà tỳ chia xá lị xây tháp, những học trò của Thiền sư như Hải Thuần, Hải Khâm, Hải Uyển, xin thỉnh một phần xá lị đem về chùa Bảo Quang (Bụt Mọc) – Bắc Ninh xây tháp, đặt tên tháp Thiền phong. Tháp Thiền Phong xây xong vào năm Canh Dần (1770). Tại chùa Trầm hiện nay có một ngọn tháp lưng chừng núi mang tên “Hối Tích Tháp”, chúng tôi cho rằng tháp này được các học trò lập ra để tưởng nhớ công ơn của ngài.

  1. Sự nghiệp văn học của Thiền sư Tính Quảng

Hiện nay, tác phẩm của Thiền sư Tính Quảng đã được Lê Mạnh Thát trong Tổng tập văn học Phật giáo, tập 1 cho đưa lên phần dự kiến công bố. Các tác phẩm như sau:

  • Tam tổ thực lục
  • Phật quốc ký
  • Sa di ni học pháp oai nghi quốc âm
  • Hiến cổ châu Phật tổ nghi
  • Văn bia và một số bài tựa[21]

Trong khi sưu tầm tác phẩm của Thiền sư, chúng tôi phát hiện một bản Thiện Tài Nam Tuần Ngũ Thập Tam Tham Khúc Dụng Quốc Ngữ trên gáy sách đề Nam tuần quốc ngữ khúc được in sau văn bản Văn Thù chỉ nam đồ tán, bản này hiện ván còn lưu trữ tại chùa Khê Hồi – Thường Tín. Thiền sư Tính Quảng đã dựa vào tác phẩm Trung Quốc diễn nôm sang thể thơ song thất lục bát. Tác phẩm chiếm 7 tờ và 1 tờ bài tựa. Bài tựa cho biết Thiền sư Tính Quảng ủy thác cho Thanh Lương sa môn Hải Tràng Thích Ẩn Ẩn viện Pháp Đăng, chùa Bảo Khánh, xã Quảng Bố, huyện Lương Tài đứng in. Văn bản không ghi lại năm in sách. Theo văn bia Trùng tu công đức bi ký cho biết năm Giáp Thân (1824) Thiền sư Từ Hòa Chiếu Thường (1765-1840) cho san khắc các kinh sách như Truy Môn Cảnh Huấn, Minh Ty Tướng Công, Văn Thù Chỉ Nam, Tây Phương Công Cứ. Như thế, văn bản này có thể khắc ván trùng san trước đó để đến năm 1824, Thiền sư cho in ra phân phát lưu thông.

Chúng tôi còn tìm được bản Phật Quốc Ký Truyện in năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780) do đệ tử Hải Soạn Thích Thời Thời trùng san, Hải Khâm Thích Thân Thân viết tựa, đính chính nhuận văn được Thiền sư Hải Luật Vô Biệt, Thiền sư Hải Hựu chùa Pháp Ấn viết chữ khắc in. Theo tờ 1a cho biết tác phẩm được Thiền sư Tính Quảng phiên quốc âm ngày 23 tháng 3 năm Canh Ngọ (1750).

Sa Di Ni Học Pháp oai Nghi Quốc Âm được in trong Hành Trì Tập Yếu Chư Nghi, chùa Yên Ninh tàng bản. Văn bản này được lưu thông rộng rãi, được các chùa thuộc sơn môn Bổ thụ trì.

Ba tác phẩm trên đều được diễn nôm theo thể thơ dân tộc. Bản Phật Quốc Ký truyện in năm 1780, còn hai bản được trùng san thời Nguyễn nhưng vẫn còn giữ nhiều cấu trúc chữ nôm xưa.

Tam Tổ Thực Lục hiện nay được lưu trữ tại Viện nghiên cứu hán nôm, kí hiệu A. 786 đã bị rách phần cuối các trang ở bài tựa. Chúng tôi còn tìm thấy một bản nữa tại chùa Hói – Hải Dương còn nguyên được đóng với Thiền Uyển Tập Anh, cũng in vào thời Lê trung hưng. Tác phẩm này không phải do Thiền sư trước tác mà nó dựa trên những tư liệu sẳn như văn bia, thư tịch đời Trần còn bảo lưu lại, từ đó Thiền sư mới sao chép, biên soạn thành một tập sách riêng.

Bản Hiến Cổ Châu Phật Tổ Nghi, in năm Quang Trung 5 (1792), ván khắc được bảo tồn tại chùa Dâu, đã được công bố trong Di Văn Chùa Dâu[22]. Như thế, Thiền sư Tính Quảng để lại 5 tác phẩm được viết bằng hai ngôn ngữ Hán và Nôm. Hai tác phẩm Tam tổ thực lục Hiến cổ châu Phật tổ nghi đều dựa trên các công trình có trước, ngài chỉ biên soạn trở lại. Còn ba tác phẩm được Thiền sư diễn nôm theo thể thơ dân tộc cũng dựa vào các tư liệu Phật điển Trung Quốc.

Ngoài ra, Thiền sư còn soạn các bài tựa, lời dẫn trên sách cùng các bài văn bia khắc trên đá hiện còn được bảo tồn. Các Bài Tựa, Dẫn viết trong lần in các Kinh sách được chúng tôi thống kê như sau:

  1. Trùng Tuyên Lăng Nghiêm Chính Mạch tự viết năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738) tại chùa Diên Phúc.
  2. Trùng Tuyên Thánh Đăng Ngữ Lục tự viết năm Cảnh Hưng 21 (1750) tại viện Thiền Phong, núi Tử Trầm.
  3. Trùng Tuyên Hộ pháp luận Tự Dẫn viết năm Cảnh Hưng 15 (1754) tại viện Thiền Phong, núi Tử Trầm.
  4. Chư Kinh Nhật Dụng Tự viết năm Cảnh Hưng 26 (1765) tại viện Thời Vũ, chùa Phúc Lai.
  5. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phẩm Tiết viết năm Cảnh Hưng 29 (1768) tại viện Thời Vũ, chùa Phúc Lai.

Các bài văn bia được chúng tôi thống kê dưới đây:

  1. Qui Tông Tháp viết năm Vĩnh Khánh thứ 1 (1730) tại chùa Diên Phúc.
  2. Dương Nham động tân tạo Đại Quán Âm Bồ Tát tứ thập nhị tý khắc thạch ký tịnh tự viết năm Long Đức thứ 2 (1733) tại chùa Diên Phúc, xã Phí Gia.
  3. Trung Đạo Tháp Ký viết năm Vĩnh Hựu thứ 1 (1735) tại chùa Diên Phúc.
  4. Tâm Hoa Tháp viết năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) tại chùa Diên Phúc.
  5. Thừa Bình Tháp Ký Tịnh Minh viết năm Cảnh Hưng 17 (1756) tại viện Thiền Phong.
  6. Tịnh Hạnh Tháp Ký Thật Lục Tịnh Minh viết năm Cảnh Hưng 18 (1757).
  7. Liên Phương Tháp Ký viết năm Cảnh Hưng 18 (1757).
  8. Quang Thông Tháp Ký Tịnh Minh viết năm Cảnh Hưng 19 (1758) tại viện Thiền Phong.
  9. Thắng Quả Tháp Ký Tịnh Minh viết năm Cảnh Hưng 21 (1760) tại viện Thiền Phong.
  10. Lãm Sơn Bảo Quang Tự Báo Ân Tháp Ký Tịnh Minh viết năm Cảnh Hưng 34 (1773) tại viện Thiền Phong.
  11. Hậu Phật Tự Ký viết năm Cảnh Hưng 38 (1777) tại chùa Thiên Ân.

Như thế, chúng ta chỉ mới sưu tầm được 5 bài tựa, lời dẫn trong các kinh sách và 11 văn bia. Đây là một tư liệu quí có nhiều giá trị văn học, sử học cùng tư tưởng. Thông qua các bài tựa, chúng ta có thể biết được công việc khắc in các kinh sách. Điểm nổi bật là Thiền sư ghi lại xuất xứ các văn bản, chọn các bản để tìm ra một bản tốt sử dụng trong công việc khắc ván in kinh. Có thể nói trước đây ít có ai làm tốt được công tác này.

Về các bài văn bia, chúng tôi nhận thấy Thiền sư viết văn bia trên tháp ghi lại hành trạng các vị Thiền sư đương thời. Nếu đem so sánh với công trình Kế Đăng Lục của Thiền sư Như Sơn, chúng ta nhận thấy phương pháp ghi chép có phần tiến bộ. Chúng tôi được biết Thiền Uyển tập anh được in lại hai lần vào thời Lê trung hưng nên độ ảnh hưởng của tác phẩm này đối với những thế hệ đương thời là hiển nhiên. Cách ghi hành trạng của Thiền sư Tính Quảng có thể chịu ảnh hưởng phương pháp chép của tác giả Thiền uyển tập anh. Sau phần nội dung, Tính Quảng còn viết một bài minh ca ngợi công đức của các bậc đại sư. Bài minh này tóm tắt lại tiểu sử mà ông đã đề cập trước đó, viết dưới nhiều dạng khác nhau. Một phần không thể thiếu đối với hành trạng là ghi lại mục Truyền Đăng Lục, tức ghi chép nguồn gốc tông môn, cùng danh sách đồ đệ và người người kế đăng sau này. Điều đó, giúp cho các nhà nghiên cứu Thiền tông Việt Nam có điều kiện viết lại phổ hệ truyền thừa cùng sự hiểu biết chi phái trong Thiền tông. Cách thức ghi  chép có phần tiến bộ so với các tác gia đi trước và được học trò ông là Thiền sư Hải Khâm Thân Thân kế thừa.

Ngoài sự nghiệp văn học, Thiền sư Tính Quảng còn đứng in một số kinh sách như Hộ Pháp Luận, Thủy Sám Bị Giản, Kim Cương Quyết Nghi, Bát Nhã Trực Thuyết, Pháp Hoa Phẩm Tiết, Chư kinh nhật tụng. Hiện nay, tại thư viện Hán Nôm còn có các bản in như Pháp Hoa phẩm tiết, Hộ Pháp Luận[23], Lăng Nghiêm Chính Mạch, Chư kinh nhật tụng.

Khi Thiền sư Như Văn viên tịch, ngài cùng đồng đạo đứng in Duy ma Cật sở thuyết kinh để truy tiến cho bản sư. Bản kinh này hiện lưu trữ tại viện nghiên cứu Hán nôm.

  1. Thiền sư Tính Quảng và truyền thừa tông Lâm Tế

Thiền phái Lâm Tế được truyền bá vào nước ta từ đời Trần. Đến thời Lê trung hưng, Thiền sư Chuyết Công Viên Văn (1590-1644) sang hành đạo tại Đại Việt đã sáng lập nên một Thiền phái, biệt danh là Đông Đô. Thiền phái này có nguồn gốc từ phái Lâm Tế truyền pháp theo bài kệ của Thiền sư Trí Bản Đột Không (1381-?), Trung Quốc. Bài kệ này được sách Kiến tính thành Phật của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) ghi lại như sau:

Trí tuệ thanh tịnh,

Đạo đức viên minh.

Chân như tính hải,

Tịch chiếu phổ thông.

Tâm Nguyên quảng tục,

Bản giác xương long.

Năng nhân thánh quả,

Thường diễn khoan hoằng.

Duy truyền pháp ấn,

Chính ngộ hội dung.

Kiên trì giới hạnh,

Vĩnh thiệu tổ tông[24]

Thiền sư Tính Quảng là một trong những truyền nhân của dòng Thiền Đông Đô. Chúng tôi biết được thông tin này từ văn bia tháp. Theo Thực Lục ghi lại như sau: “Thủy tổ Viên Văn Chuyết Công Hòa Thượng truyền Minh Lương Mãn Giác Hòa Thượng; truyền Chân Hiền Liễu Nhất Hòa Thượng truyền Như Văn tăng phó sa môn; truyền Tính Quảng Hối Tích sa môn  truyền đến các pháp tự[25]. Thiền sư Tính Quảng thuộc về thế hệ thứ năm dòng Đông Đô, thế hệ thứ hai sơn môn Muống (Quang Khánh).

Nguồn gốc phái này từ Bút Tháp rồi dịch chuyển sang Phù Lãng, từ Phù Lãng trở lại Yên tử nối kết dòng Trúc Lâm, tạo nên một phái mà phần cuối sách Tam tổ thực lục ghi là phái Trúc Lâm Lâm Tế[26]. Sau đó, Thiền sư Như Văn học đạo trên Hoa Yên về trụ trì chùa Muống, lập nên một chi phái, sau trở thành sơn môn Muống phát triển đến hết thời Nguyễn. Thiền sư Tính Quảng là học trò của Thiền sư Như Văn Huệ Tư (1655-1724) nên có gốc từ sơn môn Muống. Khoa cúng tổ chùa Muống còn ghi lại tên ngài. Vì thế, địa vị của ngài tuy không là trụ trì chùa Muống nhưng có một vai trò không nhỏ trong sơn môn.

Sau khi về Tử Trầm, Thiền sư Tính Quảng mở đạo tràng thu nhận đồ chúng. Nhiều Thiền sư đã đến đây tham học, sau đi các nơi hành đạo, tạo nên một sự truyền thừa sâu rộng. Theo Thực Lục, mục Tự Pháp Đệ Tử ghi lại đệ tử xuất gia như sau: tỳ khiêu Hải Soạn, Hải Phạn, Hải Thắng, Hải Dật, Hải Trí, Hải Hồng, Hải Từ, Hải Trình, Hải Tràng, Hải Luật, Hải Thiếp, Hải Thiện, Hải Bật, Hải Thân v.v. Trong đó nổi lên có Thiền sư Hải Soạn kế đăng trụ trì chùa Phúc Lai, Thiền sư Hải Luật Thích Cục Cục trụ trì chùa Khánh Quang lập nên một chi phái. Thiền sư Hải Khâm Thích Thân Thân ở am Thụ Thụ chùa Bảo Quang, sau đó lập viện Hội Ninh, chùa Linh Quang thôn Phú Mẫn, huyện Yên Phong, tạo nên một chi phái riêng. Thiền sư Hải Bật (1716-1796) trụ trì chùa Càn An – Nam Đồng, Hà Nội. Thiền sư Hải Dật trụ trì chùa Long Động. Thiền sư Hải Uyển Thích Sâm Sâm kế đăng viện Thiền Phong, sau về trụ trì chùa Sùng Ân. Thiền sư Thanh Lương Hải Tràng Thích Ẩn Ẩn ở viện Pháp Đăng, chùa Bảo Khánh, xã Hạo Bá, huyện Lương Tài, Kinh Bắc.

Riêng Thiền sư Thích Thân Thân noi gương theo thầy truyền dạy học chúng, từng đứng in nhiều tác phẩm và viết các bài tựa, văn bia mà hiện nay vẫn còn.

Qua hành trạng cũng như sự nghiệp Thiền sư Tính Quảng, chúng ta được biết thêm một tác gia văn học Phật giáo Việt Nam thời hậu Lê. Thiền sư Tính Quảng đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị văn học bằng chữ nôm như Phật Quốc Ký truyện, Nam tuần quốc ngữ khúc. Có công bảo tồn tư liệu Phật giáo thời Trần như Tam tổ thực lục, Thánh đăng ngữ lục. Các văn bia do ngài viết có một giá trị sử học nhất định. Thông qua các bài tựa, dẫn, chúng ta có thể đánh giá cách làm trong công việc in ấn thuở xưa. Thiền sư đã để tâm làm tốt các mặt như đối chiếu các bản, ghi rõ trong phần phàm lệ, qui định rõ ràng, do đó bản mà ngài sử dụng khắc ván sẽ tốt hơn. Không chỉ thế, Thiền sư còn thu nhận đồ chúng, đào tạo nhân tài góp phần vào sự phát triển của Phật giáo thời cuối Lê.

 

 

[1] Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ ghi Thiền sư quê ở Phúc Mễ. Chúng tôi suy đoán chữ Lai 来in thiếu nét, nên đọc là Mễ 米. Từ đó, trong các công trình tiếng việt đều ghi quê Thiền sư là Phúc Mễ. Chúng tôi dựa vào văn bia tháp và một số sách địa dư để đính chính sai lầm trên.

[2] Theo văn bia Tháp Tâm Hoa tại chùa Bút Tháp.

[3] Theo Sa Di Ni Học Pháp uy Nghi Quốc Âm trong Hành Trì Tập Yếu Chư Nghi, bản in năm Thành Thái 14.

[4] Theo Thiền Phong Tháp ký do đệ tử Hải Khâm Thân Thân soạn vào năm Cảnh Hưng 31 (1770).

[5] Theo Thiền Phong Tháp Ký và Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ, còn các tư liệu chữ Hán khác không ghi năm sinh. Hà Nội Danh lam Cổ Tự ghi năm sinh là ngày 14/4/Giáp Dần, có lẽ tác giả này nhầm.

[6] Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ, phần truyền đăng chùa Càn An-Nam Đồng ghi lại. Hai tư liệu văn bia không thấy đã động gì.

[7] Văn bia tháp Thời Vũ và Thiền Phong ghi lại như trên, còn Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ ghi là 7 tuổi.

[8] Theo Thực Lục ghi lại năm ngài 19 tuổi văn chương tinh mật, được các học giả tôn trọng. Ngài thường đi chơi các tự  viện nhân đó lễ Phật yết kiến các cao tăng.

[9] Chùa Phúc Khánh theo Thực lục thuộc xã Xuân lai, cùng một tổng.

[10] Năm xuất gia, hai tư liệu văn bia ghi lại chênh lệnh 1 năm. Theo Thực Lục năm Nhâm Thìn ngài 19 tuổi xuất gia, còn Thiền Phong Tháp Ký ghi năm Quí Tỵ cũng cho ngài 19 tuổi xuất gia với Thiền sư Như Nghiễm. Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ ghi năm 19 tuổi ngài xuất gia với Thiền sư Tịnh Niệm. Như thế lúc 19 tuổi ngài xuất gia, chúng tôi đồng nhất Thiền sư Tính Giác Như Nghiễm chính là Thiền sư Tịnh Niệm mà văn bia Thiền Phong Tháp KýThiền Uyển Truyền Đăng Lục ghi.

[11] Theo Thực LụcThiền Uyển Truyền Đăng Lục.

[12] Dân gian gọi là chùa Muống ở thôn Dưỡng Mông, xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Chùa được sáng lập khoảng năm Khai Thái nhà Trần, gắn liền với sự tích Thánh tổ Non Đông.

[13] Thiền sư Vô trụ chính là Thiền sư Như Tùy (1696-1733) trụ trì chùa Bảo Quang (Bụt Mọc), có thể Tính Quảng thụ giới năm 1731, 1732 vì năm 1730 Thiền sư vẫn xưng là Sa di. Do nhân duyên đó mà trong Viên Không Tháp Ký có ghi tên Thiền sư.

[14] Theo các văn bia tháp Tịnh Hạnh, Qui Tông, Liên Phương.

[15] Theo Thiền Phong Tháp Ký ghi năm Quí Mão (1723) Thiền sư nhận độ điệp trụ trì chùa Diên Phúc. Chùa Diên Phúc còn gọi là Chùa Bùi, hiện thuộc thôn Phí Gia, xã Đồng Gia, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trong dân gian có câu: “Lên chùa Muống, xuống chùa Bùi, lùi chùa Gạo” chỉ ba ngôi chùa lớn của huyện Kim Thành.

[16] Theo Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, bản in năm Bảo Thái 7 (1726) do Tính Quảng đứng in, chùa Lậu Trạch tàng bản, Thư viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu AC. 423.

[17] Các năm trên đều dựa theo Thiền phong Tháp Ký, còn Thực Lục chỉ ghi lại ngài lên núi Tử Trầm lập viện Thiền Phong. Chùa Phổ Quang, thời Lê thuộc thôn Đình Luân, huyện Gia Lâm. Đời Nguyễn đổi lại là thôn Đình Loan, nay thuộc huyện Văn Lâm, Hưng Yên.

[18] Tác phẩm in năm Cảnh Hưng 15 (1754).

[19] In năm Cảnh Hưng thứ 29 (1768) tại chùa Phúc Lai.

[20] Dân gian gọi là chùa Phúc Lai thuộc xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, Bắc Ninh. Chùa này thời Pháp bị triệt hạ, các tháp tổ bị đỗ không còn dấu vết. Sau những thập niên 90 của thế kỷ XX mới được trùng hưng lại nhưng kết cấu còn nhỏ. Chúng tôi về thăm chùa nhưng chùa không còn bảo tồn tư liệu. Các văn bia nhờ viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp cho dập trước năm 1945. Hiện lưu trữ tại viện Nghiên Cứu Hán Nôm.

[21] Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật Giáo, tập 1, Nxb Tp HCM, tr. 18.

[22] Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Di Văn Chùa Dâu, Nxb KHXH, H. 1997, tr. 18, 19.

[23] Riêng Hộ Pháp Luận được khắc ván in lại nhiều lần thời Nguyễn, cũng được hòa thượng Phúc Điền dịch nôm. Đây là tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn đến Phật giáo nước ta.

[24] Chân Nguyên soạn, Kiến tính thành Phật, bản in năm Minh Mệnh thứ 6, chùa Sùng Phúc tàng bản, lưu tại Viện nghiên cứu hán nôm, kí hiệu A. 2570, tờ 103a8-103b4.

[25] Theo Thực Lục, mục Truyền Đăng lục.

[26] Tam tổ thực lục, bản in năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765), tờ 21b, bản lưu tại Thư viện chùa Hói-Hải Dương.