LỄ HỘI VU LAN VÀ TRAI ĐÀN CHẨN TẾ

06/ 12/ 2017 08:49:27

LỄ HỘI VU LAN VÀ TRAI ĐÀN CHẨN TẾ

                CS.  QUẢNG TUỆ

 

Trong quan niệm về nhân sinh – thiên nhiên – vũ trụ của người Phương Đông, chu kì thời gian và tiết nhịp của nó có ý nghĩa cực kì quan trọng. Quan niệm đó không chỉ định hướng trong hoạt động sản xuất “kiếm sống” của con người mà còn chi phối tới cảm thức tâm linh và hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, lắng đọng thành nếp sống – nét văn hoá độc đáo.

Theo Dịch thời (một loại Dịch nghiên cứu về qui luật của mối quan hệ nhân sinh và vũ trụ), xét theo mối quan hệ tương tác âm – dương, một ngày, một năm được chia thành hai chiều, hai khuynh hướng rõ rệt: trong một ngày, từ giờ Tý (23h00 ngày hôm trước đến 01h00 ngày hôm sau) đến giờ Tỵ (09h00 – 11h00) là chiều hướng dương thịnh âm suy, từ giờ Ngọ (11h00 – 13h00 đến giờ Tuất (21h00 – 23h00) là chiều hướng dương suy âm thịnh; trong một năm, từ tháng 11 (tháng Tý, theo Âm – dương hợp lịch là tháng có tiết Đông chí) đến tháng 4 có khuynh hướng dương thịnh âm suy, từ tháng 5 (tháng Ngọ, có tiết Hạ chí) đến tháng 10 có khuynh hướng âm thịnh dương suy. Dương là ấm nóng, biểu thị sự phát triển sinh sôi nảy nở v.v, Âm là nguội lạnh, biểu thị sự lụi tàn, thê lương chết chóc v.v.

Cùng với nhận thức lí tính về qui luật âm dương của thiên nhiên – vũ trụ đã hình thành nên cảm thức tâm linh tín ngưỡng tôn giáo, nó qui định thời gian, không gian và nội dung của các lễ hội dân gian – tín ngưỡng tôn giáo truyền thống (1). Chiều thời gian dương thịnh (từ tháng 11 đến tháng 4), nhìn chung không gian lễ hội được mở rộng, tính chất “hội hè, đình đám” nổi trội, con người như muốn được giao hoà cùng thiên nhiên vũ trụ trong công trình “sinh sinh bất tức” của tạo hoá. Ngược lại, chiều thời gian âm thịnh (từ tháng 5 đến tháng 10), về cơ bản không gian lễ hội được thu hẹp lại, phần nghi và lễ có tính chuẩn mực và nghiêm cẩn hơn, chú ý nhiều hơn tới chiều sâu của cảm thức tâm linh tình tự của mỗi cá nhân tham gia lễ hội. Theo kết quả thống kê của các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, một năm chúng ta có tới gần 500 lễ hội trải rộng khắp các miền đất nước, trong suốt cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Trong đó có hai lễ hội phản ánh đậm nét nhân sinh quan – vũ trụ quan – tín ngưỡng tôn giáo, được nhiều người quan tâm nhất, được tổ chức với qui mô nhất là Lễ hội Thượng nguyên Thiên quan tứ phúc (上元天官賜福) và Lễ hội Trung nguyên Địa quan xá tội  (中元地官赦罪) (2).

Lễ hội Thượng nguyên được tổ chức vào ngày Rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của một năm mới. Tháng Giêng thuộc quẻ Địa Thiên Thái (地天泰),là tiết “Tam dương khai thái”, mở đầu của mùa xuân – mùa lễ hội, cầu mong “nhân phong vật thịnh”. Ngày này mọi nhà đều bài trí ban thờ, sắm sửa cỗ bàn cúng ông bà tổ tiên, thổ công thổ địa thổ kì…, biện lễ lên đình lên chùa cầu mong Phật Thánh phù hộ, ban phúc lành cho cả năm. Theo Phật giáo, ngày mồng một và ngày rằm là ngày của Phật, kết hợp với tín ngưỡng dân gian, người Phật tử đến chùa dâng lễ vật cúng Phật với niềm tin: “Lễ chùa quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng”; ngày đó Phật giáng lâm xuống mọi chùa chiền để độ trì cho mọi người tai qua nạn khỏi, phúc lộc dồi dào, khoẻ mạnh quanh năm v.v. Từ một lễ hội dân gian mang đậm tính chất tôn giáo, Lễ hội Thượng nguyên (còn gọi là Hội đèn Quảng Chiếu) trở thành một nét sinh hoạt văn hoá Phật giáo có qui mô quốc gia của Thăng Long thời Lí – Trần. Sách Đại Việt sử kí toàn thư ghi, năm Bính Ngọ (1126) “Mùa xuân, tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm” (3).

Rằm thámg Bảy là ngày trăng tròn đầu tiên của mùa thu, mùa chủ về sự tàn úa thê lương. Tháng bảy thuộc quẻ Thiên Địa Bĩ (天地否), nghĩa trái nghịch với quẻ Thái. Không gian vũ trụ và sinh học của một vùng từ dải Trường giang Trung Quốc hắt xuống phía nam ra Biển Đông  vào tiết thu mang dấu ấn rất đặc trưng. Có trời thu trong lạnh hiu hắt cô liêu với những cánh chim sải cánh về Nam tránh rét, khiến Vương Bột (649 – 675), một trong “Tứ kiệt” của thi đàn thời Sơ Đường, trong Đằng vương các tự đã vẽ nên bức tranh đặc tả cảnh thu bất hủ: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Ráng chiều với cò lẻ cùng bay, Nước thu cùng trời dài một sắc). Cũng có tiết Ngâu, “Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt” và “Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng” (Nguyễn Du), “nước mắt Ông Ngâu Bà Ngâu” trong câu chuyện Ngưu lang Chức nữ đượm màu huyền thoại phản ánh cái thê lương thao thiết của cỏ cây và nỗi lòng nhân thế trong cảnh chia li: “Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây. Lòng vắng muôn bề không liếp che, gió về. Ai nức nở thương đời, châu buông mau, dương thế bao là sầu …” (Giọt mưa thu, Đặng Thế Phong). “Thiên nhân tương dữ” (Trời và người có mối thông quan lẫn nhau). Trời ấy, cảnh ấy là cơ sở cảm thức nhân sinh – vũ trụ  của Lễ hội Trung nguyên Địa quan xá tội vốn là sự kết hợp giữa Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian, một lễ hội mang ý nghĩa văn hoá nhân sinh sâu sắc. Người ta tin rằng, ngày Rằm thámg bảy Địa quan mở cửa địa ngục xá tội cho các vong hồn bị giam hãm, nhân gian làm lễ cúng vong và thí thực cho các vong hồn (kể cả những vong hồn bơ vơ không có người chăm sóc) được lên trần hưởng lộc.

Phật giáo là một hệ thống tôn giáo – văn hoá – đạo đức lấy từ bi – trí tuệ làm đầu cho nên khi được truyền bá vào vùng Nam Trung Quốc và Việt Nam nó đã nhanh chóng hội nhập cùng những yếu tố văn hoá bản địa phù hợp và bản địa hoá một cách nhuần nhị và sâu sắc. Nghi thức cúng thí thực cô hồn và lễ Vu Lan báo hiếu vốn có từ trong kinh điển Phật giáo cùng với Lễ hội Trung nguyên Địa quan xá tội qua quá trình  tiếp – biến (4) lâu dài trong lịch sử trở thành một trong những lễ hội lớn nhất trong năm, ở đó dường như không thể phân biệt đâu là Phật giáo, Đạo giáo hay tín ngưỡng dân gian.

Với người Phật tử Việt Nam, Lễ Vu Lan báo hiếu hay tết Trung nguyên xá tội vong nhân được tổ chức vào ngày Rằm tháng bảy là một trong những ngày lễ chính bởi nó còn có ý nghĩa:

– Còn gọi là ngày Phật Hoan Hỉ, ngày kết thúc 3 tháng an cư thanh tịnh của chúng Tỳ kheo.

– Ngày Tăng Tự tứ. Đức Phật dạy hàng Tỳ kheo vào ngày kết thúc an cư phải cầu mong những vị có giới đức thanh tịnh hơn mình chỉ ra cho lỗi lầm. Nếu mình tự nhận thấy lỗi cũng phải tự phát lộ sám hối trước chúng để tâm được thanh tịnh.

– Ngày Tăng Thụ tuế. Thụ tuế là nhận thêm tuổi. Thế gian tính một năm thêm một tuổi, nhưng theo luật Phật chế, hàng xuất gia thụ giới của Đức Phật được tính tuổi theo Hạ lạp. Nghĩa là, năm nào có an cư kết hạ tu hành trọn vẹn 3 tháng thì ngày Tự tứ được tính thêm một tuổi hạ. Hạ lạp còn gọi là Giới lạp hay Pháp lạp.

Đương nhiên sau khoá an cư kết hạ, uy đức của chư vị Tỳ kheo càng được tăng trưởng, tinh thần vững tiến, cho nên giai tiết Vu Lan là dịp tốt nhất để tác tạo phúc duyên, hồi hướng công đức cầu siêu nguyện độ cho cửu huyền thất tổ, lịch đại tôn linh, lục thân quyến thuộc, cha mẹ nhiều đời, tuỳ duyên giúp đỡ xoa dịu nỗi đau thương của những người trong cơn khốn khó, cúng tiến các loại âm linh cô hồn v.v để linh hương họ được văn kinh thính pháp trực vãng Tây phương. Dù cùng được cử hành trong ngày Rằm tháng bảy nhưng nghi thức và ý nghĩa của lễ Vu Lan và Cúng thí thực cô hồn có khác: Báo hiếu là cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, còn thí thực là bố thí thức ăn (tinh thần và vật chất) cho chúng vong không nơi nương tựa không người cúng cấp.

Nghi thức cúng thí thực cô hồn vốn là một hành nghi của Mật giáo vốn bắt nguồn từ kinh Phật thuyết Cứu bạt Diệm khẩu Ngạ quỉ Đà la ni, Phật dạy ngài A nan cách thức cúng thí để thoát khỏi nạn Ngạ quỉ đồng thời tăng phúc thọ. Trong các loại cúng thí cô hồn, trai đàn chẩn tế (còn goi là Hội Mông Sơn thí thực) được tổ chức qui mô nhất. Trai đàn chẩn tế là pháp thức để siêu độ vong linh những người đã chết mà vì oan nghiệp nào đó chưa siêu thoát hoặc tái sinh được. Tuy xuất phát từ Mật tông nhưng trong hành nghi của Trai đàn chẩn tế bao gồm cả tư tưởng giáo lí của Thiền tông và Tịnh độ tông. Với sự chú tâm thanh tịnh hợp nhất Thân (tay bắt ấn), Khẩu (miệng niệm chú), Ý (tâm quán tưởng chủng tự) của vị sư Gia trì và giọng thỉnh ai của các vị Kinh sư cùng tang linh mõ khánh… đã tạo nên sự hợp nhất của tự lực và tha lực thành một năng lực vô biên có thể mời thấu và bạt độ mọi cô hồn.

Chúng ta chưa có tư liệu để biết chính xác khoa nghi thí thực được truyền vào từ khi nào nhưng theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì đến thời Trần, khoa nghi này đã khá phổ biến với hành trạng của Đệ Tam tổ Huyền Quang và sách vở của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay trong các chùa phổ biến dùng bản dịch Nôm Khoa nghi thí thực nổi tiếng của cố Hoà thượng Bích Liên (Thích Trí Hải, 1876 – 1950), cũng có nơi dùng bản Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du (1766 – 1820), được coi như một kinh để thỉnh cô hồn trong nghi thức cúng thí. Đã có nhà nghiên cứu ngờ rằng Văn tế thập loại chúng sinh chính là một bản dịch thoát của Mông Sơn khoa với thể thơ song thất lục bát giầu chất trữ tình lâm li tha thiết và với nội dung đời hơn, bình dân gần gũi hơn mà vẫn thấm đậm triết lí sâu sắc của nhân sinh quan Phật giáo.

Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn bài Văn tế thập loại chúng sinh vốn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và có nhiều dị bản.

 

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
NGUYỄN DU (1766 – 1820)
(Còn gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn)
 

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt sương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường Bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Hồn khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi,
Muôn nhờ Đức Phật từ bi,
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng,
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa gió lở,
Khôn đem mình làm đứa thất phu,
Lớn sang càng nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỉ không đầu van khóc đêm mưa,
Cho hay thành bại tại cơ,
Mà oan hồn đến bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh tân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết cậy ai bát nước nén nhang,
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận,
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung,
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Mêng mông góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết nơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù vân dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa đom đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quí
Dẫn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà dấn thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ, láng giềng người dưng.
Bóng tử phần xa chừng hương khúc,
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hưu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm may chạy xế gió đông,
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách xá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ việc nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm vắt gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi,
Lập loè ngọn lửa ma chơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuối xuân buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá, biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc,
Gửi mình vào chiếu rách một manh,
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha,
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng!
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Kẻ trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành,
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái,
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau,
Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn siêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ,
Hoặc là nương thần từ, Phật tự,
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông,
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre…
Sống  đã chịu một bề thảm thiết,
Ruột héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
 Có khôn thiêng nhẽ lại mà mghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ Đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân Tam giới Thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện Đại Vương,
Linh kì một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào,
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng “Vạn cảnh giai không”,
 Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đấy dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu,
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không,
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.


 

 

___________

  1. Xem thêm: Tết – không gian, thời gian và nhịp sinh học (Khuông Việt số 5, tháng 1 năm 2009).
  2. Với người Việt ở vùng Châu thổ Sông Hồng và trung du còn có lễ Hạ nguyên Thuỷ quan giải ách vào ngày Rằm tháng mười, dân gian gọi là tết Cơm mới (Thường tân), con cháu thiết cỗ nấu cơm mới tiến cúng ông bà tổ tiên chứng giám cho một mùa thu hoạch mới. Tiết Hạ nguyên khí âm đến cùng cực (Lục âm sinh, chuyển bị bước sang chu kì mới nhất dương sinh), thiên đình cử thần Tam Thanh xuống trần kiểm tra công việc tốt xấu để về báo cáo.
  3. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Đại Việt sử kí toàn thư. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tập I, tr.372
  4. Thuật ngữ “tiếp – biến văn hoá” (acculturation) dùng để chỉ hiện tượng hai thực thể văn tiếp xúc với nhau, rồi cùng biến đổi, tạo ra sản phẩm văn hóa thứ ba