NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO HIẾU TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO         

06/ 12/ 2017 08:53:23

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO HIẾU TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO

                                    TRẦN ĐĂNG SINH*

 

Hiếu là nền tảng của muôn hạnh lành. Đạo Hiếu là một giá trị đạo đức cơ bản được nói đến ở hầu hết trong hệ thống kinh điển Phật giáo.

Kinh Vu Lan Bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục Kiền Liên, cứu thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của các bậc cao tăng và A la hán. Kinh Báo ân cha mẹ nói rõ công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó khăn, và theo đó dạy cách con cái báo đáp công ơn trời biển của cha mẹ. Kinh Thai cốt và kinh Huyết bồn cũng có nội dung tương tự như hai kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh công đức của cha mẹ. Kinh Hiếu tử dạy về các phương thức báo hiếu. Kinh Tâm địa quán với phẩm thứ hai là phẩm “Báo ân”, dạy cách đền ơn cha mẹ của người xuất gia và người tại gia. Kinh Đại phương tiện Phật báo ân có đến 2 phẩm nói về hiếu hạnh của Phật và Bồ tát trong các đời sống quá khứ. Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của Địa Tạng Bồ tát và qua đó hướng dẫn cách đền ơn cha mẹ ở đời sống hiện tại và quá khứ. Đặc biệt, Sám pháp Mục kiền liên dạy về cách sám hối và hướng dẫn cha mẹ về chính pháp của đức Phật. Kinh Thiện sinh (hay Giáo thọ Thi-ca-la-việt) dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của xã hội loài người, trong đó đề cập đến 5 nguyên tắc đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của con cái đối với cha mẹ. Kinh Tăng Chi nhắc nhiều lời dạy về hiếu hạnh của Đức Phật.

Nội dung đạo Hiếu trong kinh Phật được đề cập trên nhiều phương diện:

1, Sự biết ơn và đền ơn cha mẹ

Người con hiếu thảo là người luôn tỏ lòng biết ơn và cố gắng đền đáp lại công ơn trời biển của cha mẹ. Biết ơn và đền ơn đúng pháp là bậc chân nhân, thiện nhân. Làm con mà không biết ơn cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu. Người như vậy sẽ bị xã hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị suy giảm, và đời sống về sau sẽ bị đau khổ: “Ai thành tựu thân làm ác với cha mẹ, lời nói ác đối với cha mẹ, ý nghĩ ác đối với cha mẹ; không biết ơn, không trả ơn, sẽ tương xứng rơi vào địa ngục và hiện đời sẽ bị đau khổ”(1). Sự hiếu dưỡng bồi công tích đức cho cha mẹ là một trong những yếu tố chính yếu để được tái sinh về các cõi trời. Chư thiên cõi trời luôn khen tặng những người con có hiếu bằng những lời chúc lành. Chính các vị thiên này cũng nhờ vào hạnh hiếu thảo mà được sinh về thiên giới, làm giảm thiểu cảnh giới A tu la: “Phúc thay những người con hiếu kính cha mẹ, làm nhiều công đức để hiếu kính cha mẹ, vì như vậy thiên chúng sẽ được sung mãn và các A tu la sẽ bị giảm thiểu” (2)

Trong kinh Tương ưng I. 8, Đức Phật cũng nói đến vị trí của người con hiếu thảo là tối thắng:

Trong các loài con cái

Hiếu thuận là tối thắng.

Trong kinh Hạnh phúc, việc hiếu kính cha mẹ không chỉ là một loại hạnh phúc mà còn là một thứ hạnh phúc tốt lành nhất trong các hạnh phúc của con người:

“Sự phụng dưỡng mẹ cha

Là hạnh phúc lớn nhất”

Hình ảnh hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp không chỉ được gọi là bậc chân nhân, bậc thiện nhân, bậc cao quý, mà còn được ví ngang hàng với Phạm thiên, với các bậc tiên sư. Những gia đình có được những người con hiếu thảo như vậy được gọi là gia đình xứng đáng được cúng dường và tán thán:

“Này các Tỳ kheo, những gia đình nào mà con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được xem là ngang hàng với Phạm thiên, với các bậc tiên sư và đáng được cúng dường.”(3)

Để giải thích thỏa đáng lý do có sự so sánh ngang hàng này, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, danh từ Phạm thiên, tiên sư, bậc đáng được cúng dường là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cha mẹ đã đầu tư hầu hết cuộc đời của mình vào công trình nuôi dưỡng, giáo dục và giới thiệu con cái vào đời”(4).

Về quả phúc mà người con nhận được do lòng hiếu thảo thật lớn lao. Người con có hiếu dù gặp nạn hồng thủy, địa chấn sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì trọn hưởng gia tài, không bị nghịch cảnh, chướng duyên và nội nghịch ngoại thù. Nếu nghèo thì đời sống trong sạch, thanh nhàn, trời người yêu mến, danh thơm xông khắp, không bị nợ nần, khổ sở, ít bệnh tật, được tăng trưởng tuổi thọ. Trong hiện tại thường được các bậc hiền trí ngợi khen, kết giao thân thiện, sau khi chết được về cõi trời.

Lý giải tại sao con cái phải hiếu kính cha mẹ, kinh Phật cho rằng:

Về phương diện thai dựng, cha mẹ đã khổ cực trong suốt chín tháng cưu mang và ba năm bồng ẵm. Chín tháng thai dựng là thời gian người mẹ phải chịu nhiều đau khổ và bất tiện nhất. Ba năm bú mớm là thời gian mà mẹ và cha bận rộn và hy sinh cho con nhiều nhất:

“Này A Nan, Như Lai xem chúng sinh dầu được làm người nhưng lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ nhớ đến công đức của cha mẹ như non bể, không cung kính, không hiếu thảo. Mẹ mang thai con trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên như mang gánh nặng, ăn uống phải kiêng cữ, chẳng còn ngon miệng. Ngày tháng thoi đưa, đến kỳ sinh nở, mẹ chịu đau đớn mọi bề. Khi sinh được thân này, mẹ phải ăn đắng nuốt cay, nhả bùi mớm ngọt, nâng niu, dưỡng dục, giặt giũ dơ dáy, không nề gian khổ. Những lúc cơ hàn, tâm khổ, mẹ nằm chỗ ướt, dành chỗ ráo cho con. Rồi ba năm bú mớm, nâng niu, dạy bảo đủ điều, cho con ăn học” (5).

Hoặc: “Cha mẹ sinh ta, mang thai mười tháng, khổ sở rất nhiều, công ơn chan chứa, nặng như núi Thái, đi lại khó nhọc, ngồi đứng không yên, tính mạng bấp bênh, như đèn trước gió. Ăn uống không ngon, như người đau nặng, thân hình gầy yếu, tinh thần bải hoải. Đến ngày mãn nguyệt, khổ không thể nói, chẳng kể đến mình, mệt nhọc bao nhiêu, chỉ mong cho con sinh được vuông tròn. Bởi thế cho nên, ngày nay chúng ta phải nghĩ đến công đức sâu dày của cha mẹ mà lo báo ân”.(6)

Vì cha mẹ mà chúng ta được sinh ra, có được tất cả. Do đó, làm con phải thờ kính cha mẹ: “Này Bà la môn, thế nào là lửa đáng cung kính? Cha mẹ là lửa đáng cung kính, vì từ cha mẹ, chúng ta được tạo nên. Do đó cha mẹ là lửa đáng cung kính, tôn trọng và cúng dường”.(7)

Về phương diện giáo dục con cái, kinh Phật dạy, cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, lo bạn bè, cho ăn học, lập gia thất, chạy thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản tấm thân lao khổ:

“Cha mẹ dạy điều lễ nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu nghề nghiệp, đưa đón đi về, cần lao chăm chút, chẳng hề kể công. Trái trời lỡ nắng, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, chạy thầy lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, khi bệnh con khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con thảo con hiền”(8).

“Cha mẹ là đấng đáng được cúng dường.Vì cha mẹ đã giúp đỡ con cái rất nhiều: nuôi chúng lớn, dưỡng dục nên người và giới thiệu chúng vào đời”(9).

Về phương diện đạo đức, cha mẹ đã hướng dẫn con cái đến con đường chính pháp của đức Phật. Đây là phương diện quan trọng và quyết định đời sống đạo đức và trí tuệ của con cái. Chính từ phương diện này, hiếu hạnh trong Phật giáo đã vượt trội hơn hiếu hạnh theo quan niệm thông thường. Kinh Phật nhấn mạnh vai trò của cha mẹ là vô cùng lớn lao trong việc hướng dẫn con cái theo con đường chính pháp của Phật. Về điều này, kinh Phân biệt Đại phương tiện Phật báo ân ghi: “Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn đến nay mới thành Phật toàn là công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên người học đạo không thể không tinh tấn hiếu thảo cha mẹ.” Bốn cẩm nang đạo đức đắc nhân tâm mà các bậc cha mẹ nên giáo dục cho con của mình:

Bố thí và ái ngữ

Lợi hành và đồng sự (10)

2, Về phương thức báo hiếu

Theo lời Phật dạy, người Phật tử đền ơn cha mẹ trên phương diện vật chất và tinh thần.

Để hiếu dưỡng cha mẹ về vật chất, người con phải cúc cung tận tụy nuôi nấng, chăm sóc, tôn kính cha mẹ đúng pháp, phục vụ cha mẹ bằng mồ hôi và tài sản có được từ nếp sống lành mạnh, chân chính, làm cho cha mẹ sống an vui, thoải mái với những tình cảm tốt đẹp nhất.

Để hiếu dưỡng cha mẹ về phương diện tinh thần, người con trước hết phải tự trau dồi tốt bản thân mình, làm tất cả những gì tốt đẹp nhất, xa lánh những điều xấu xa, tội lỗi, đem tiếng thơm về cho gia đình, để cho cha mẹ có thể tự hào và hãnh diện với mọi người. Nếu cha mẹ chưa biết Tam bảo thì phải khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về quy y và sống dưới ánh sáng của chính pháp, trau dồi chính kiến, đức hạnh chân chính, làm hành trang cho một đời sống an lạc và hạnh phúc hiện tại và mai sau. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, một sự giới thiệu, một sự tương duyên, một thiện tri thức để cha mẹ và con cái cùng bước đi trên con đường chân thiện mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chính pháp của đức Phật.

Người con báo đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng và lòng thương kính, không nên kể công “tính tháng tính ngày” mà phải nuôi dưỡng cha mẹ với sự kính thương và lòng hãnh diện vì rằng: “Không có thứ hạnh phúc nào to lớn và quý báu cho bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với ta.” Cha mẹ là niềm phúc đức và niềm an lạc cho con cái. Cha mẹ là một nửa hồn và máu huyết của con cái. Cha mẹ đã đóng góp đời mình cho sự trưởng thành của con cái. Cha mẹ là tất cả, là của con và vì con. Do đó, làm con hiếu thảo phải phụng dưỡng và kính thờ cha mẹ đúng pháp.

Phương thức đền đáp công ơn cha mẹ về phương diện vật chất rất được xem trọng trong kinh Phật. Kinh Phật dạy, mọi tài sản vật chất mà con cái đền đáp cho cha mẹ phải là những thứ tài sản hợp pháp, chân chính, phát sinh từ đời sống chính mạng và chính nghiệp. Nếu con cái nuôi dưỡng cha mẹ bằng các nghề bất chính, vi phạm pháp luật, tổn thương hạnh phúc của người khác hẳn không phải là cách báo hiếu có ý nghĩa và đã gián tiếp đưa cha mẹ vào vòng ảnh hưởng của một cộng nghiệp bất thiện và tội lỗi. Cách hiếu dưỡng cha mẹ như vậy thực chất là hại cha mẹ, chứ không phải là hiếu dưỡng theo lời Phật dạy.

Tôn giả Xá lợi phất thay lời Đức Phật giải thích về cái sai và cái đúng, cái nên làm và cái không nên làm trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ: “Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ mà làm các điều phi pháp, bất chính.Vì người làm như vậy sẽ bị quỷ sứ kéo vào địa ngục. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không thể vin lý do vì muốn cho cha mẹ sung sướng, vui lòng, để bào chữa cho mình là vô tội. Hành động như vậy sẽ bị thác đọa địa ngục dù nó có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể lể.”(11)

Hành động hiếu thuận, hiếu dưỡng của người con phải được xây dựng trên mối liên hệ nhân quả. Người con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ và có lợi cho mình mà không gây bất cứ tổn hại nào cho cha mẹ.

Quả báo của hiếu hạnh sẽ là sự an lạc từ hành vi báo hiếu chân chính, làm cho cha mẹ hoan hỷ, và hạnh phúc thật sự: “Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã nỗ lực thu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt mồ hôi đổ ra một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ với thiện ý thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và hằng cầu mong cho con được sống lâu, mạnh giỏi. Này Mahanam, người con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và mong cầu như vậy thì gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không bao giờ bị suy giảm”(12).

Đức Phật luôn luôn giáo dục mọi người không nên chỉ vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tác tạo các nghiệp phi pháp, bất chính, tổn hại mình và người. Đức Phật cũng thường nhắc rằng, sự hiếu kính đúng nghĩa có giá trị, có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của các hành vi và nghề nghiệp chân chính, phù hợp với luật pháp xã hội:

Người nào theo thường pháp

Nuôi dưỡng mẹ và cha

Chính do công hạnh này

Đối với cha và mẹ

Nhờ vậy bậc hiền thánh

Trong đời này tán thán

Sau khi chết được sinh

Hưởng an lạc chư thiên (13)

Trong kinh Thọ giáo Thi ca la việt, Đức Phật đã nêu ra năm tiêu chí đạo đức phù hợp với chính pháp mà một người con hiếu thảo cần phải thực hiện để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ.

Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp, làm tròn bổn phận con cái, giữ gìn gia phong và truyền thống, bảo vệ tốt các tài sản thừa tự và chu đáo tang lễ khi cha mẹ qua đời. Người con hiếu thảo đền ơn cha mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó không những chỉ bằng phương diện vật chất mà còn bằng phương diện tinh thần. Bởi lẽ, mục đích của cuộc sống nhân sinh không chỉ phải là có được bát cơm manh áo mà còn phải cần đến chân lý, đạo đức và đời sống tinh thần: “Hiện tiền đại chúng hãy nên biết rằng, ân đức cha mẹ không bến không bờ, thực khó đáp đền. Dù trăm nghìn đời nghiền thân làm vị đề hồ dâng cúng cho cha mẹ cũng không báo đáp hết công ơn cha mẹ. Nếu lại có người dâng các thức ăn, trăm vị ngon ngọt, dâng các áo mặc, thuốc thang đầy đủ, suốt ngày lễ lạy, cúng dường cha mẹ cũng không báo đáp được công ơn dưỡng dục”(14).

Kinh Hiếu tử dạy: “Con nuôi cha mẹ, dâng thức ăn quý, ngon miệng cha mẹ, hòa nhạc du dương, vui tai cha mẹ, sắm áo lụa là, mát thân cha mẹ, vai cõng cha mẹ đi khắp thiên hạ, tuy làm như thế chưa phải là hiếu”.

Trong kinh Báo trọng ân phụ mẫu, Đức Phật đưa ra nhiều so sánh để nhằm khẳng định sự việc báo ơn cha mẹ bằng vật chất, dù là đúng pháp, vẫn chưa trọn nghĩa hiếu tình:

“Ví có kẻ nào hai vai kiệu cõng cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận. Cho dù như vậy cũng chưa báo đáp được công đức cha mẹ kể trong muôn một.

Ví lại có người khi gặp đói kém, cắt hết thịt mình, dưỡng nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nan, riêng mình cam chịu trăm ngàn muôn kiếp để báo thâm ân, chẳng được một phần kể trong muôn một.

Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp tự tay cầm dao khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là chưa trả được ân kể trong muôn một.

Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng đao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một.

Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt đèn cúng dường chư Phật, như thế cũng chưa trả được ân kể trong muôn một.

Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy để làm thang thuốc chữa bệnh cho cha mẹ, như thế cũng chưa trả được ân kể trong muôn một.

Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì cứu mẹ cha, nuốt viên sắt nóng sém cả mình, như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một”.

Như vậy, kinh Phật ngoài việc hướng dẫn con cái hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống vật chất, còn rất chú ý tới việc con cái biết hiếu dưỡng cha mẹ về đạo đức và tinh thần.

Hiếu dưỡng về tinh thần đòi hỏi con cái phải tự nỗ lực gột bỏ tham lam, sân hận, si mê, từ bỏ sự giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình cảm bất chính, không nói láo, không uống rượu và các chất kích thích  có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ lực làm các việc thiện đem lại lợi ích cho mình và cho người. Nói chung hiếu thảo trước nhất là biết cách hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để cha mẹ an tâm, hoan hỷ và hãnh diện: “Làm con hiếu thảo theo lời kinh dạy là cố gắng tu trì, diệt trừ tội chướng, thanh tịnh hành vi, cha mẹ hiện tiền sống lâu trăm tuổi, tổ tiên quá khứ rũ sạch oan khiên”.(15)

Một trong những cách sống có hiếu thảo với cha mẹ là làm điều thiện và phước báo cho mình và người: “Tất cả mọi người nên phát tâm thành làm mọi phước đức để báo đáp ân sâu, cha mẹ hiện tiền, quá khứ thân thuộc đều nhờ công đức ấy mà được vãng sinh về Tịnh Độ”.(16)

Mặt khác, người con hiếu thảo còn phải biết tích tập các công đức làm được để hồi hướng cho cha mẹ đã quá cố: “Nên phát hiếu tâm làm mọi việc lành, dựng nên đạo tràng, cúng dường tam bảo, tụng kinh lễ sám, sám hối phát nguyện, tu các công đức, hồi hướng cha mẹ, hiện tại và quá khứ”.(17)

Người con hiếu thảo ngoài việc hoàn thiện nhân cách đạo đức, tìm con đường giác ngộ, giải thoát cho chính mình, còn phải biết khéo léo hướng cha mẹ bỏ tà về chính, khuyên cha mẹ làm các việc lành để loại trừ các nghiệp ác, tạo nên nhân giác ngộ, để cha mẹ có thể tự mình an lạc và giải thoát: “Hiện tiền đại chúng thiện nam tín nữ phải phát hiếu tâm cúng dường cha mẹ, khuyên tu thập thiện, cùng chứng đạo quả, cùng thành Bồ đề, đời này an vui, đời sau hạnh phúc”.(18)

Như vậy, người con có hiếu thảo không phải là người con “cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó” hay chỉ biết “vâng dạ nuông chìều.” Trái lại, người con hiếu phải đầy đủ bản lĩnh, sẵn sàng và khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chân chính, để cha mẹ thật sự an lạc: “Nếu cha mẹ ương ngạnh, si mê tà kiến, không tin Tam bảo, hung hiểm bạo ngược, tàn ác bất nhân, gây nhiều nghiệp dữ, người con có hiếu phải biết khuyên can cha mẹ, khiến sinh tín tâm, quay về chính đạo, gần gũi bạn lành, mở lòng Bồ đề, tu thiền niệm Phật, làm cho cha mẹ thường được an ổn”.(19)

Người con hiếu thảo không chỉ đơn thuần đáp ứng cho cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời mà còn phải hướng đến đời sống đạo đức và trí tuệ của cha mẹ và bản thân.

Nội dung hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống vật chất và đời sống tinh thần trong kinh điển Phật giáo chính là mục tiêu giáo dục của đức Phật. Đây chính là điểm vượt trội của Phật giáo so với các tôn giáo khác về đạo Hiếu.

 

_____________________

* Phó giáo sư, Tiến sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội.

(1) Kinh Tăng chi I. 637

(2) Kinh Tăng Chi I. 459 – 460

(3) Kinh Tăng Chi I. 147

(4) Kinh Tăng Chi I. 124

(5) Đạo Phật Thích ca (2006), Sự phụng dưỡng cha mẹ, tr.20-21

(6) Sám pháp Mục Liên, 135 – 136

(7) Kinh Tăng Chi III. 31

(8) Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, 21-22

(9) Kinh Tăng Chi I, 147

(10) Kinh Tăng Chi I. 387

(11) Kinh Trung Bộ II. 188A

(12) Kinh Tăng Chi III. 69

(13) Kinh Tương Ưng I. 22

(14) Sám pháp Mục Liên, 141

(15) Sám pháp Mục Liên, 46

(16) Sám pháp Mục Liên, 46 – 47

(17) Sám pháp Mục Liên, 97

(18) Sám pháp Mục Liên, 147

(19) Sám pháp Mục Liên, 142