RỒNG VIỆT VƯƠN CAO VÀ BAY XA RA BIỂN ĐÔNG

11/ 11/ 2017 15:42:44

RỒNG VIỆT VƯƠN CAO VÀ BAY XA RA BIỂN ĐÔNG

TRONG THẾ KỶ XXI

                                                                ThS. Đức Hạnh

Tổ quốc Việt Nam của chúng ta mang hình dáng của một con Rồng đang vươn ra biển Đông. Phần đầu của Rồng là miền bắc với chiều rộng lớn hơn, đủ để thể hiện những chi tiết uy nghi như sừng, bờm và râu. Miền trung thon, hẹp là thân Rồng đang bay lượn uyển chuyển và miền nam thể hiện những khúc cuộn của Rồng nên có hình thái phình ra to hơn và kết thúc tại mũi Cà Mau có dáng dấp như mỏm đuôi Rồng đang vẫy vùng.

Trên bản đồ Việt Nam vùng đất Thăng Long-Hà Nội nằm đúng vị trí mắt Rồng với miệng của nó mở ra nơi cửa sông Thái Bình, mũi Rồng là vùng Quảng Ninh, Hải Phòng và hàm dưới chính là vùng Thanh Hoá ngày nay. Với một góc nhìn như vậy thì cái tên Thăng Long- Rồng bay lên được đặt cho Thủ đô một nước có hình dáng đặc biệt của một con Rồng đang vươn ra biển Đông thật là phù hợp với ước nguyện xây dựng tương lai hưng thịnh và đi lên của các bậc tổ tiên và hài hòa trong mối quan hệ thiên- địa- nhân.

Trải qua đời Lý, đời Trần, đến thời Lê có một sự đứt đoạn khi giặc Minh xâm lược và đô hộ trong hai thập kỷ thì đổi tên thành Đông Quan. Sau này, khi Lê Thái Tổ giành lại đất nước đổi tên thành Đông Đô, nhưng tên gọi “Thăng Long” vẫn tồn tại trong đời sống chính trị, trong sách vở và trong tâm thức người dân.

Địa danh Thăng Long ra đời gắn liền với việc dời đô của Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra vùng đất Đại La. Trong Chiếu dời đô có nói, về thế núi, thế nước, thế sông, và đây đã là một vùng đất trù phú. Như trong sách sử, tên Thăng Long gắn liền với truyền thuyết Lý Công Uẩn liên hệ hình ảnh “Rồng Bay Lên” gắn với thế nước Đại Việt với nền tự chủ đang được củng cố. Đây là một cái tên quá đẹp. Nhất là con rồng không chỉ thể hiện sức mạnh cho một vương triều mà còn thể hiện sức sống của đất nước. Hơn thế nữa, đối với một quốc gia nông nghiệp như nước ta, rồng là con vật linh thiêng gần gũi với nền văn minh lúa nước. Tóm lại, cái tên “Thăng Long” là cái tên đẹp, vừa có bề dày lịch sử nghìn năm vừa là hình tượng đầy sức sống, thể hiện ý chí vươn lên của người Việt.[1] Thăng Long-Hà Nội dưới triều Nguyễn (1802-1945) không còn là kinh đô của đất nước. Và triều Nguyễn có hẳn một ý đồ hạ thấp vị thế của nó để tập trung quyền lực hơn cho chính quyền trung ương đặt kinh đô tại Huế. Những mô tả của người Pháp sau khi chiếm được Hà Nội đều mô tả sự tàn lụi của một đô thị, đặc biệt là về hạ tầng nhưng cũng ghi nhận những di sản và tiềm năng văn hoá của mảnh đất này. Tất cả điều đó cho thấy cả 2 cái tên “Thăng Long” và “Hà Nội” đều chứa đựng những giá trị chung của một mảnh đất nhưng cũng lại có những giá trị riêng của những thời kỳ lịch sử mang tính liên tục và kế thừa.

Cho đến đầu thế kỷ XIX, khi nhà Nguyễn lên, do nhiều lý do nên lấy Phú Xuân (Huế) làm kinh đô. Tên Thăng Long vẫn còn giữ nhưng đã mang nghĩa khác. Chữ “Long” bây giờ không còn nghĩa là “Rồng” nữa mà có nghĩa là “Thịnh Vượng”. Vùng đất kinh kỳ xưa, nay dù không còn là kinh đô nữa nhưng vẫn là nơi thịnh vượng về kinh tế, vẫn là nơi tập trung trí tuệ và bảo lưu văn hiến quốc gia.

Đến thời vua Minh Mạng mới tìm cách tăng cường hơn nữa cho vai trò của kinh đô Huế và không chấp nhận phân chia quyền lực của Nhà nước Trung ương nên cái tên Thăng Long chuyển gọi là “Bắc Thành” (trong nam là “Gia Định Thành”. Rồi vua Minh Mạng còn phá thành cũ xây thành mới có quy mô nhỏ hơn. Và cuối cùng để “hoà tan” cái vị thế vốn có của một kinh đô, không gian của Thăng Long xưa được mở rộng về lãnh thổ (tăng gấp 3 lần) để trở thành đơn vị hành chính của một “tỉnh” như mọi tỉnh khác trong vương quốc Đại Nam và lấy tên là tỉnh “Hà Nội”[2].

Bằng trí tuệ anh minh và qua  những trải nghiệm lịch sử, các triều vua trị vì đất nước đã sớm nhận ra vị trí trung tâm đầu não của quốc gia chính là nơi ngự trị của mắt Rồng. Vào buổi bình minh của đất nước, năm 544 sau công nguyên, Lý Bí xưng Đế dựng nước Vạn Xuân và đã đóng đô ở khu vực Thăng Long – Hà Nội ngày nay. Ông đã cho xây dựng chùa Khai Quốc (Chùa Mở nước, sau đổi tên thành chùa Trấn Quốc ở khu vực Hồ Tây- Hà Nội). Khi vua Lý Công Uẩn viết chiếu dời đô ông đã khẳng định giá trị phong thủy (ngày nay gọi là môn  Địa lý-Môi trường) có một không hai của vùng đất này và sau đó là người đầu tiên đặt tên Thăng Long cho kinh đô nước Việt. Trong dân gian từ thuở xa xưa đã có niềm tin rằng vua Lý Công Uẩn lấy tên “Thăng Long” để thể hiện khát vọng và ý chí vươn lên mạnh mẽ của dân tộc, chứa đựng ý niệm thiêng liêng về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên.

Chính vì vậy sau nhiều lần đổi tên như Đông Đô[3] (1397-1407, 1428-1430), Đông Quan[4] (1407- 1427), Đông Kinh[5] (1430- 1789), Bắc Thành[6] (1789- 1831) thì cái tên Thăng Long[7]vẫn lắng đọng lại một cách thân thương và đầy tự hào trong sâu thẳm tình cảm của mỗi người dân Việt Nam.[8] Còn Hà Nội đối với chúng ta cũng rất thân thuộc và trìu mến, nó có nghĩa là thành phố trong sông (chỉ con sông Hồng ngày nay), là chốn kinh kỳ trên bến dưới thuyền mà vua Minh Mạng năm 1831 khi thực hiện cải cách hành chính chia lại các tỉnh thuộc vùng Đàng Ngoài cũ đã đặt cho vua Lý Công Uẩn dời đô. Nhân đây tôi xin cung cấp cho các độc giả thêm một chi tiết lịch sử rất là lý thú bên Trung Quốc từ thời Đông Hán đã có địa danh Hà Nội. Nếu đọc lại Tam Quốc hẳn chúng ta sẽ thấy đoạn chiến lược gia Tuân Úc khuyên Tào Tháo như sau: “Xưa Cao Tổ giữ Quan Trung, Quang Vũ chiếm Hà Nội mà tạo ra cái thế rễ sâu, gốc vững mà chế ngự thiên hạ…”[9] Hiện nay được biết tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc (dưới thời Tam Quốc vùng này thuộc nước Thục) có thị tứ Hà Nội. Nằm về phía đông của Ôsaka Nhật Bản, trên đường đi Kyôtô cũng có một khu vực mang tên Kawachi có nghĩa là Hà Nội (trong sông) với cách biểu đạt bằng chữ tượng hình theo Hán tự giống như Hà Nội của Việt Nam ta. Địa danh này ra đời từ thế kỷ 7 sau công nguyên, tức là lâu đời hơn Hà Nội của chúng ta tới 1200 năm. Sự trùng hợp này được giải thích là do Nhật Bản trước kia cũng chịu ảnh hưởng cách định danh của người Trung Hoa, định vị tọa độ theo hình thế núi sông.[10] Suy rộng ra thì có thể còn có nhiều địa danh Hà Nội[11] nữa ở những vùng sông nước trong khu vực Đông Á ngày nay.

Có thể nói trên thế giới không có đất nước nào mà hình dáng, truyền thuyết về cội nguồn và địa danh lại có nhiều liên hệ tới Rồng như nước Việt Nam. Nào là thành Thăng Long, Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, sông Cửu Long, Hoàng Long, núi Hàm Rồng, đảo Bạch Long Vĩ, sự tích con Rồng cháu Tiên v.v…Phải chăng đây cũng là khát vọng ngàn đời, là sứ mệnh thiêng liêng mà cha ông đã đặt lên vai con cháu, hãy kiên cường vượt qua phong ba bão táp để hóa Rồng? Đất nước Việt Nam đã đạt được những đổi thay thần kỳ, muốn con Rồng Việt Nam có thể bơi xa, bay cao nhất thiết phải có được một  cú hích, một sự đột phá quyết liệt trong nhận thức và hành động của toàn xã hội. Vậy, thế và lực của chúng ta không ngừng được nâng cao, nhiều người đã bắt đầu nói đến Việt Nam như một con Rồng mới của Châu Á đang vươn ra đại dương hội nhập quốc tế.

Đã đến lúc phải đánh lên một hồi trống để đánh thức lòng tự tôn dân tộc vốn sẵn có trong huyết quản mỗi người Việt Nam, đánh thức con Rồng Việt đã nhiều năm nay gối đầu trong dòng sông Hồng mang nặng phù sa để nó vươn mình bay cao trên biển cả như thời Lý, Trần  mấy trăm năm lịch sử oanh liệt và rạng rỡ. Chưa bao giờ đất nước ta lại đứng trước những vận hội to lớn như hiện nay, đó là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đất nước Việt Nam giờ đây thống nhất, con Rồng Việt nằm trải dài suốt một dải bên bờ biển Đông, vóc dáng của nó đã lớn hơn nhiều so với cái buổi ban đầu tổ tiên ta dựng nước, đó là địa lợi. Và một khi gần hơn 90 triệu trái tim và khối óc được thôi thúc vươn lên bởi hào khí Thăng Long thì yếu tố nhân hòa sẽ được cộng hưởng, tạo nên một sức bật mãnh liệt.[12] Thăng Long vẫn ở sâu trong tâm thức người Việt Nam chúng ta, nhất là khi gợi nhớ đến bề dày lịch sử và quá khứ hào hùng. Cho nên câu thơ “Từ thuở mang gươm đi mở cõi – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” đã nói lên cái tâm thức ấy…Tất cả điều đó cho thấy cả 2 cái tên “Thăng Long” và “Hà Nội” đều chứa đựng những giá trị chung của một mảnh đất nhưng cũng lại có những giá trị riêng của những thời kỳ lịch sử mang tính liên tục và kế thừa.

Lấy tên Thăng Long cho Thủ đô trên đà phát triển, tương lai bao gồm nhiều địa phương sáp nhập lại, sẽ tạo nên khí thế của sự hợp nhất, đi lên, đồng lòng và đoàn kết anh em một nhà. Trong nội tâm mỗi chúng ta góp phần tạo nên một khí thế vươn lên đối với thế giới, khi nhắc đến Việt Nam mọi người sẽ liên tưởng ngay tới một đất nước có thủ đô mang tên Rồng bay đầy hào khí đi lên và rất ấn tượng, mang một nét văn hóa đặc thù. Đặc điểm này sẽ có một ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

[1] Tham khảo bài viết của sử gia Dương Trung Quốc tại trang http://www.tuanvietnam.net

[2] Xung quanh sự kiện vua Minh Mạng đặt tên Hà Nội có nhiều ý kiến cho rằng trước đó,  từ thời  vua Gia Long –Nguyễn Ánh (năm 1805) đã ra lệnh triệt phá Hoàng Thành Thăng Long, hạ độ cao tường thành cho thấp hơn kinh đô Phú Xuân và bắt dân đọc chệch chữ Long trong Thăng Long thành Lung (trong từ lao lung ). Để sĩ phu và nhân dân Bắc Hà quên hẳn hào khí Thăng Long nên năm 1831 Minh Mạng đã đặt tên Hà Nội. Nếu ghép cái tên khai sinh là Thăng Long với tên Hà Nội (sẽ là Rồng bay trong sông) thì dễ dàng thấy hình ảnh một con Rồng đang bị giam hãm trong một dòng sông chật hẹp chứ không phải đang được bay giữa trời, biển bao la. Điều này có khác chi hổ chạy trong cũi, cá bơi trong chậu hoặc chim bay trong lồng?

Đó là một hành động có tính toán rất thâm thúy để đáp lại việc trước kia sĩ phu và nhân dân Bắc Hà đã nhiệt thành ủng hộ nhà Tây Sơn (hẳn chúng ta còn nhớ quan đại thần của Gia Long là Đặng Trần Thường đã cho đánh chết Ngô Thì Nhậm ngay trong sân Văn Miếu Quốc Tử Giám vì tư thù và tội đã đắc lực phò nhà Tây Sơn. Ngay đến hài cốt của vua Quang Trung cũng bị đày đọa thê thảm như thế nào thì mới thấy được sự hằn học của nhà Nguyễn đối với di sản của Tây Sơn). Sau này triều đình nhà Nguyễn đã dễ dàng thỏa thuận với thực dân để Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp.

[3] Đông Đô: Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô”.

[4] Đông Quan: Quan quân nhà Minh gọi Thăng Long là Đông Quan với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Theo sử sách, năm 1408, quân Minh sau khi đánh bại cha con Hồ Quý Ly đã đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

[5] Đông kinh: Thời Lê, vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh.

[6] Bắc Thành: Đời Tây Sơn (1787-1802) vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế), nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.

[7] Thăng Long: Năm 1802, vua Gia Long quyết định đóng đô ở Phú Xuân (Huế), không ra Thăng Long. Tên Thăng Long đã có từ lâu đời, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi, vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ Long là Rồng thành chữ Long là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ Long là rồng. Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805.

[8] Nếu làm một phép thống kê so sánh các triều đại ở Việt Nam trong 1000 năm gần đây thì có thể rút ra 2 kết luận sau :

Phàm triều đại nào mà không lấy vùng đất Thăng Long làm Thủ đô thì triều đại đó sẽ không vững bền và không thể nắm trong tay toàn vẹn bờ cõi: Hồ Quý Ly rút về Thanh Hóa lập Tây Đô thì tồn tại được vỏn vẹn có 10 năm (1397-1407), nhà Tây Sơn (14 năm:1788-1802), các vua Nguyễn (143 năm:1802-1945) và chính quyền Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn trước đây (21 năm: 1954-1975) đã lấy thủ đô của triều đại mình ở những vùng đất khác thì đều có những số phận tương tự. Nhà Nguyễn chính thức tại ngôi được 143 năm nhưng thực chất đã bị Pháp đô hộ hơn 80 năm (1862- 1945 ) nên chỉ được tính 60 năm thực quyền!.

Lịch sử của Thăng Long cho tới hôm nay là 998 năm với 5 lần đổi tên thì chỉ có 388 năm Thủ đô của đất Việt mang tên Thăng long thôi. Đó là vào thời Lý (217 năm), Trần (171 năm) được đánh giá là một giai đoạn lịch sử phát triển thịnh vượng và bền vững nhất về kinh tế, hùng mạnh về quân sự (3 lần đánh thắng quân Nguyên-Mông) đồng thời mang đậm sắc thái riêng của Việt Nam trong phát triển Phật giáo, văn hóa nghệ thuật và y học. Sự chuyển tiếp giữa 2 triều đại cũng diễn ra tương đối êm ả, ít bạo động và đầu rơi, máu chảy. Mười hai năm mang tên Đông đô đánh dấu sự sụp đổ của triều đại Hồ Quý Ly, 20 năm mang tên Đông Quan chỉ gợi lại nỗi ô nhục khi bị giặc Minh đô hộ tàn bạo, hủy diệt tận gốc truyền thống văn hóa của dân tộc. Giai đoạn khá dài 354 năm mang tên Đông Kinh là một thời kỳ xen lẫn giữa vinh quang (Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh) và ô nhục (Lê chiêu Thống dâng đất nước cho nhà Thanh). Đó cũng là thời kỳ đất nước rối ren, mất đoàn kết và bị phân chia (các cuộc tranh giành Lê-Mạc, vua Lê-chúa Trịnh, Trịnh – Nguyễn phân tranh dẫn đến tình trạng Đàng trong, Đàng ngoài ). Trong giai đoạn này các triều đại thường tồn tại không quá 100 năm và không đạt được sự cường thịnh như thời Lý, Trần. 42 năm mang cái tên Bắc Thành là một giai đoạn mà các vua nhà Nguyễn muốn làm lu mờ dần đi cái tên Thăng Long trong tâm thức của tầng lớp sĩ phu và nhân dân Bắc Hà vốn ủng hộ nhà Tây Sơn. Với tên Hà Nội được đặt vào năm 1831 thì cho tới nay mới có 177 năm chúng ta đã bị thực dân Pháp đô hộ hơn 80 năm, Mỹ xâm lược gần 30 năm và 10 năm chiến tranh biên giới, tổng cộng là gần 2/3 thời gian đầy khó khăn, đất nước chưa có được bao nhiêu thời gian để phát triển.

[9] Tinh hoa mưu trí trong Tam Quốc, tác giả Hoắc Vũ Giai, người dịch Nguyễn Bá Thính, các trang 61, 353, NXB Lao động, 1996.

[10] Xem bài: “Hãy thả cho Rồng bay lên” của nhà sử học Dương Trung Quốc đăng trên Lao Động cuối tuần số 15, ngày 11/4/2008

[11] Hà nội: Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội”.

[12] Tham khảo tư liệu của Phạm Gia Minh tại trang http://www2.vietnamnet.vn/thuhanoi/2008/10/806702/