Ý NGHĨA NGÀY RẰM THÁNG BẢY XUẤT XỨ TỪ HAI TIẾNG VU LAN

11/ 11/ 2017 14:41:33

Ý NGHĨA NGÀY RẰM THÁNG BẢY

XUẤT XỨ TỪ HAI TIẾNG VU LAN

                                                                                              ThS. Thích Thiện Hạnh

 

 

Tháng 7 âm lịch, người Việt có một ngày lễ mà chư tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu Lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất, một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.  Rằm tháng 7 Âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh.

Cổ nhân đã dạy: “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên, nhân sinh do Tổ do Tông”. Nghĩa là: cây có gốc, nước có nguồn, con người có Tổ có Tông. Uống nước mà không nhớ nguồn; ăn trái mà không nhớ kẻ trồng cây, con cháu mà không nhớ tới ông bà, tổ tiên thì sao cho phải đạo làm người? Kinh sách Phật giáo cũng đã ghi chép nhiều về việc cầu siêu như trong kinh Đại bát Niết bàn, Kinh Vu Lan hay chuyện Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ, v.v. Do đó mà lễ truy tiến Tiên linh cũng không kém phần quan trọng, danh từ nhân gian thường gọi là “Hiệp tế”. Mục đích là để nhờ thần lực chư Tăng, công đức cúng dường, bố thí thay cho Tiên linh, đặc biệt là nhắc nhở, hướng dẫn hương linh tu tập khoa nghi đã soạn sẵn để giúp hương linh thoát khỏi cảnh phiền não và làm cho người còn sống an tâm phần nào đối với người đã khuất, để xứng đáng là một người Phật tử trong nhiệm vụ trên cúng dường dưới bố thí.

 

  1. Xuất xứ hai tiếng Vu Lan

Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản kinh ngắn của Phật giáo Đại thừa Phật thuyết kinh Vu Lan Bồn, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán vào đời Tây Tấn, tức khoảng năm 750-801 và được truyền từ Trung Hoa vào Việt Nam, không rõ từ năm nào.

Chữ Vu Lan, vốn phiên âm từ tiếng Sanscrit: Ullambana, Hán dịch là giải đảo huyền, có nghĩa là “cứu nạn treo ngược”. Giải có nghĩa là gỡ ra cho khỏi vướng mắc, cởi trói buộc, giải mê lầm. Ðảo là ngược, cũng có nghĩa bóng là những hành động điên đảo gây nên do sự thấy biết sai lầm, như việc phải cho là quấy và việc quấy cho là phải; do đó tạo nghiệp dẫn đến cảnh khổ. Huyền là treo. Ðảo huyền là treo ngược, đầu trở xuống đất, chân đưa lên trời. Cụm từ “giải đảo huyền” nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược, gỡ cho họ khỏi gông cùm xiềng xích, khỏi khổ đau ách nạn. Sâu xa, giải đảo huyền còn có nghĩa là giải thoát khỏi tất cả những mối phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc cái tâm đi luân hồi, giải thoát khỏi sự trói buộc cuả tâm tham, tâm sân và tâm si.

Nói cách khác, ta đang sống trong cảnh giới địa ngục vậy. Thật ra, tâm bà Thanh Ðề cũng có thể là tâm mẹ quá khứ của chúng ta và cũng có thể là tâm tham sân si của chính ta. Vì thế, muốn được siêu thoát, ngoài yếu tố chính là cọng lực chú nguyện của chư Thánh Tăng tác động lên tâm bà Thanh Đề, thì tâm bà Thanh Đề hay tâm mẹ quá khứ của chúng ta phải tự thức tỉnh, tự chuyển tâm sám hối lỗi lầm. Một khi tâm chuyển là cảnh giới địa ngục của chính mình tan rã, tựa như ánh sáng xoá tan màn đêm đen tối. Nếu không tự thức tỉnh, không tự chuyển hoá tâm, thì sức chú nguyện của chư Thánh Tăng cũng không thể nào cảm ứng để mà giải cứu được, bởi vì đối với Phật giáo, việc tái sinh đã không do một đấng sáng tạo mà do luật nhân quả tác động thì việc cứu độ vong linh cũng thế, cũng tuỳ thuộc vào luật nhân quả, cũng không thể cầu khẩn một đấng thần linh nào cứu được.

 

  1. Lễ Vu Lan bắt nguồn lòng hiếu thảo

Vậy lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ tìm thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tỳ. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ.

Phật dạy cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sinh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo.

Phật lại dạy rằng vào ngày trăng tròn tháng bảy, tức là ngày lễ Tự Tứ[1] của chư Tăng, sau ba tháng an cư kết hạ thanh tịnh, hãy sắm lễ vật và thỉnh chúng Tăng để cúng dường, nhờ sự chú nguyện của chúng Tăng thì mẹ Ngài sẽ được giải thoát. Ngài Mục Kiền Liên tuân theo lời Phật dạy, thỉnh chúng Tăng chú nguyện và nhờ đó mẹ ngài, bà Thanh Ðề đã được sinh về cõi trời.

Phật dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thụ thực. Trước khi thụ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sinh về cảnh giới lành.

 

2.Hình ảnh bà Thanh Đề thoát khỏi địa ngục

Qua những lời dạy bảo của Đức Phật, chúng ta thấy hình ảnh bà Thanh Ðề chụp ngay bát cơm khi ngài Mục Kiền Liên dâng lên, một tay che không cho người khác thấy vì sợ bị giựt, một tay bốc ăn, nói lên cái tâm mê muội tham lam của con người và hình ảnh khi bà vừa đưa tay bốc cơm thì cơm hoá thành than hồng cháy đỏ, bụng đói mà không sao ăn được, nói lên cảnh giới địa ngục. Thật ra ba cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh hay còn gọi là ba đường ác, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong con người chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta nóng giận là lửa địa ngục sân hận bừng cháy. Bất cứ khi nào tham dục nảy sinh trong tâm ta là chúng ta sống trong cảnh giới ngạ quỷ. Địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh là những nơi nhận quả báo của những chúng sinh gieo trồng nhân tham lam, sân hận và si mê. Nếu con người không chế ngự được ba thứ độc dược này thì luôn luôn sống trong toan tính, rồi từ đó ăn không ngon, ngủ không yên, triền miên đau khổ phiền não, luôn sống trong ác mộng và cuộc đời biến thành địa ngục lúc nào không hay biết. Quả là như thế, con người khi tham mà không được thì hay nổi sân và mỗi khi tham và sân chế ngự được tâm chúng ta thì chúng ta không còn kiểm soát được lời nói, ý nghĩ và việc làm nữa, do đó tâm thần trở nên bất an, xao động và hỗn loạn, nói những lời không nên nói, làm những việc không nên làm, và mang nhiều tư tưởng xấu xa đen tối. Nói cách khác, ta đang sống trong cảnh giới địa ngục vậy.

Sở dĩ bà Thanh Đề thoát khỏi cảnh giới địa ngục, sinh về cõi trời là do sức mạnh bởi sự chú nguyện của chư Thánh Tăng và do sự tự thức tỉnh của bà Thanh Đề. Khác với sự cầu nguyện nơi một số tôn giáo khác, chú nguyện là tập trung hết năng lượng tư tưởng của mình vào một điều gì mình muốn cho tha nhân. Năng lực được tập trung lại đó có thể làm thay đổi tình thế như tia sáng laser ngày nay do sự hội tụ của ánh sáng có thể đốt cháy được một vật ở rất xa ngoài không gian. Một ví dụ điển hình khác là các nhà thôi miên, bằng sự tập trung tư tưởng vào một người, có thể nâng người đó lên hay di chuyển thân người đó dễ dàng. Ðây là vấn đề sức mạnh của tư tưởng mà các nhà khoa học hiện đại đều công nhận. Các cao Tăng hay còn gọi là thanh tịnh Tăng, sau thời gian ba tháng an cư thiền định thường có tâm lực rất mạnh, dễ dàng tác động vào tâm của bà Thanh Ðề khiến bà thấu rõ tội ác của mình trong quá khứ và nổi niệm sám hối, chuyển đổi tâm niệm, từ tâm ích kỷ tham lam độc ác, thành tâm vị tha quảng đại. Hễ tâm thay đổi thì ngay đó cảnh giới địa ngục khổ sở tan rã, theo như câu: “Tội tuỳ tâm sinh, tội tùng tâm diệt” hay “khổ tuỳ tâm sinh, khổ tùng tâm diệt”. Nhờ vậy bà thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, rời khỏi chốn địa ngục tối tăm cực khổ mà sinh vào cảnh giới an lành, không có sự can thiệp của thần linh nào vào đây cả. Ngài Mục Kiền Liên, tuy là bậc thần thông đệ nhất nhưng với đạo lực một mình vẫn không thể nào thay đổi được luật nhân quả, cứu vớt nổi mẫu thân, nên đã phải nhờ đến sức chú nguyện tập thể của mười phương Tăng trong ngày Tự tứ.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng kinh Phật thường có vô lượng nghĩa, để khế hợp với vô lượng tâm chúng sinh. Ðức Phật là bậc đại từ đại bi, sau khi giác ngộ, Ngài trực nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nhưng chỉ vì bị ba thứ độc hại: tham, sân và si lôi kéo mà bị dẫn đi trong luân hồi, như trường hợp bà Thanh Đề. Ngài muốn trải ruộng phước cho chúng sinh trồng xuống cây bố thí, đó là cánh cửa đầu tiên để cho chúng sinh tập hạnh xả bỏ, bớt đắm nhiễm vào của cải, bớt tham lam bủn xỉn, cho nên Ngài dùng phương tiện thiện xảo dạy chúng sinh thực hiện pháp cúng dường chư Tăng, vừa tạo duyên lành cho Phật tử gieo trồng nhân thiện, vừa dạy cư sĩ thực hiện nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo, ngõ hầu chư Tăng ni có được đầy đủ vật dụng cần thiết mà an tâm tu hành cho tới giác ngộ, để tiếp tục trao truyền ngọn đèn chính pháp, độ thoát cho hết thảy chúng sinh khỏi sinh già bệnh tử.

Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.

  1. Ngày xá tội vong nhân và cúng cô hồn
  2. Ngày xá tội vong nhân

Trong dịp lễ hội Vu Lan, ngoài việc tụng kinh cầu siêu, thiết lễ cúng dường trai tăng tại các tự viện còn là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày ăn năn, sám hối, mong được tha thứ lỗi lầm. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm chú nguyện cho các vong linh sớm thoát khỏi những kiếp khổ đau. Ngày xá tội vong nhân được dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Lễ cúng cô hồn được truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa vào thời Đường và được truyền sang nước Việt từ năm 1302,[2] sau đó lễ này rất thịnh hành, vào thời đại Phật giáo nhà Trần qua việc tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là “diệm khẩu phổ thí pháp hội” có nghĩa là những đại hội về Phật Pháp để bố thí thức ăn cho loài quỷ đói. Phép này được thực hành trên căn bản một tác phẩm tên là Thí chư ngạ quỷ ẩm thực cập thủy pháp do Ngài Bất Không dịch vào thế kỷ thứ tám, đời Ðường.[3] Cho nên nền triết lý của đạo Phật rất cao siêu, không phải người nghiên cứu một sớm một chiều mà có thể hiểu và quán triệt được toàn bộ.

Vì vậy đối với người bình dân khó có thể thâm nhập khi bước đầu học Phật được tức khắc. Nghi lễ là con đường đưa người vào đạo bằng con tim, chứ không phải bằng khối óc. Thông qua nghi lễ, đạo lý cao siêu được cảm nhận. triết lý được nghệ thuật hóa một cách nhẹ nhàng và mang âm hưởng của văn thơ, ngôn ngữ, diễn tả cảnh tình hết sức thanh thoát. Thi sĩ không cần dùng nhiều từ ngữ để bày tỏ tâm tư tình cảm v.v như trong khoa nghi Chẩn tế cô hồn sẽ thấy rõ văn thơ tả cảnh tuyệt vời: “Từng nghe rằng: mặt trời gác núi, tối sáng giành nhau. Bầu trời đầy sao, thế giới bùng lên ánh lửa (lửa tham lam, sân hận, si mê). Từng đàn chim bay về tổ ấm, kẻ nông phu người ngựa dắt díu nhau về. Trên chòi cao đầu làng, thỉnh thoảng điểm trống cầm canh, dưới bờ suối róc rách tiếng gió lùa vào ngọn cỏ. Lầu cao đã kín cổng, chòi cỏ cũng thâm u. Chính lúc này là thế giới của ngạ quỷ, vì vậy nên mở lòng từ khai đàn pháp sự để cứu độ chư âm linh oan hồn uổng tử.” Ngôn ngữ và âm nhạc đã góp phần làm cho nghi Chẩn tế cô hồn được cảm nhận bằng trực giác hay tình cảm chứ không bằng suy tư, lý luận.

 

  1. Lễ cúng cô hồn

Nghi thức cúng thí thực cô hồn vốn là một loại hành nghi của Mật giáo. Nghi thức này đầu tiên căn cứ vào Kinh Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Đà-la-ni do ngài Bất Không dịch vào đời Đường, Trung Quốc. Nguyên bản kinh này đầu tiên là do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch, ngài Bất Không chỉ dịch lại cùng với một số kinh điển liên quan khác như Kinh Du-già tập yếu cứu A Nan Đà-la-ni nghi quỹ, Thí chư ngạ quỷ ẩm chực cập thủy pháp …Theo kinh Phật thuyết cứu bạt diệm khẩu Đà-la-ni chú, sách Thí ngạ quỷ ẩm thực cập thủy phápDu-già tập yếu cứu A Nan Đà-la-ni diệm khẩu quỷ nghi kinhDu-già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi có viết rằng: Một hôm nọ, ngài A Nan đang nhập thiền định thì một vị ngạ quỷ Diệm Khẩu xuất hiện và nói với ngài A Nan rằng, trong ba ngày nữa ngài A Nan sẽ chết, nếu muốn vượt qua khổ nạn này thì nên đem thức ăn, nước uống nhiều bằng số cát sông Hằng để bố thí cho các loài ngạ quỷ đang đói khổ. Xuất thiền, Ngài A Nan vô cùng lo âu, tự nghĩ rằng thân xuất gia, ngày ngày đi khất thực của đàn na tín thí, làm sao có đủ phẩm vật để cứu vớt chúng ngạ quỷ được đây. Ngài trình lên đức Phật. Đức Phật khuyên ngài A Nan chớ có lo sợ và dạy rằng: “Trong một kiếp về quá khứ, đức Phật sinh ra trong một gia đình Bà -la-môn, và đã được học hỏi pháp bí yếu chân ngôn Đà-la-ni có tên là Biến thực biến thủy chân ngôn. Pháp này có thể trì tụng, thân khẩu ý thanh tịnh, biến một thành mười, mười thành trăm vạn ngàn ức, nhiều bằng số cát sông Hằng để có thể cứu giúp các loài ngạ quỷ đang đói khổ”. Và Đức Phật đã truyền lại cho ngài A Nan để cứu khổ ngạ quỷ. Từ đó về sau, mỗi lần thụ trai, các đệ tử của Phật thường sớt phần ăn của mình lại để bố thí chúng sinh và ngạ quỷ. Mãi về sau, chư Tổ sắp xếp lại theo thứ lớp: cúng Phật, cúng Tổ, thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư Tăng thụ trai. Tại chùa, cúng thí thực cô hồn là một phần không thể thiếu trong hành trì thiết yếu hằng ngày vào thời công phu chiều. Tại Việt Nam, bất cứ thời gian và không gian nào, khi trong tư gia có đám giỗ, ma chay đều có cúng thí thực cô hồn. Đơn giản thì một mâm nhỏ, 1 nồi cháo trắng gọi là cúng cô hồn, cúng kẻ khuất mặt mày, không nơi thờ tự, không người cúng tế để thể hiện lòng từ bi của đạo Phật.

Đến đời Tống, các Danh tăng Trung Quốc lại hưng khởi pháp thí thực, phần nhiều các Ngài đưa thêm những kinh điển Hiển giáo có liên quan đến Mật giáo vào nghi thức để tác pháp cúng dường, trì tụng chân ngôn, rồi biên soạn ra nhiều nghi thức để lưu hành. Đến đời Nguyên, do Mật giáo chiếm địa vị trọng yếu ở Trung Quốc, các vua quan Nguyên triều tôn sùng Mật giáo nên pháp Du-già thí thực lại càng hưng thịnh. Đương thời cuốn Du-già tập yếu diệm khẩu tthực nghi, 1 quyển (không rõ dịch giả) là tác phẩm ược lưu hành rộng rãi nhất. Nghi thức này chia làm 2 phần: Nửa phần đầu tụng 35 danh hiệu Phật, Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm tụng và bài cúng dường Tam bảo; nửa phần sau là Quán Âm định, Phá địa ngục chân ngôn và bài Thí ngạ quỷ thực. Hiện tại các nghi thức thí thực đều dựa theo tác phẩm này rồi thêm bớt mà thôi.[4]

Đến đời nhà Tống, Cam Lồ Pháp sư lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh núi Mông thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Phần khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và lời cầu nguyện tóm lược như sau:

  1. Trình bày tất cả do tâm tạo qua bài kệ Hoa Nghiêm: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tính, nhất thiết duy tâm tạo.”
    2. Nguyện xa lìa cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá tan mọi phiền não, sám hối tội lỗi, giải sạch oan khiên qua thần chú: Phá địa ngục chân ngôn, Phổ triệu thỉnh chân ngôn, Giải oan kết chân ngôn v.v.
  2. Cung thỉnh mười phương Tam Bảo, Đức Thích Ca, Đức Quán Âm, Đức Địa Tạng, và ngài A Nan giáng lâm đàn tràng chứng minh.
  3. Hướng dẫn chúng sinh quy y Tam Bảo.
  4. Sám hối nghiệp chướng: Tất cả chúng sinh hữu tình và vô tình, bao gồm cả người cúng và người được cúng phải thành tâm sám hối mới có lợi lạc.
    6. Phát đại nguyện: thề cứu độ hết chúng sinh, thề phá hết phiền não, nguyện học các pháp môn tu tập, thề nguyện thành Phật đạo.
  5. Diệt tội: Thành tâm sám hối, phát đại nguyện và hành giả tụng các thần chú mới có linh cảm như chú Diệt Định nghiệp chân ngôn của Ngài Địa Tạng, Diệt bất định nghiệp chân ngôn của Ngài Quán Âm.
  6. Tuyên thuyết định giới: Thần chú khai yết hầu chân ngônTam muội gia giới chân ngôn để chúng sinh diệt trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu thụ hưởng pháp thực, thụ xong giữ giới để thoát phiền não nghiệp chướng.
  7. Biến thức ăn thành pháp vị: Biến thực chân ngôn, Biến thủy chân ngôn, Nhất tự thủy chân ngôn, Nhũ hải chân ngôn khiến cho chúng sinh ngạ quỷ thụ hưởng được sung mãn.
  8. Kết nguyện: thần chú gia trì tịnh pháp thực, tất cả chúng sinh cô hồn đã no đủ, xả hết tâm tham lam mau thoát cảnh địa ngục u đồ, trì chú Vô giá thực chân ngôn phá tan sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng thụ hưởng cam lồ pháp vị.
  9. Hồi hướng: Cầu cho tất cả chúng sinh an lành, vãng sinh cực lạc.
  10. Khoa nghi chẩn tế cô hồn có ba điểm

1) Tâm thành

2) Kinh chú

3) Thân khẩu ý thanh tịnh.

Chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan hồn uổng tử, chết bất đắc kỳ tử, bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không nơi nương tựa. Không những cúng tiến thức ăn nước uống mà còn gia trì Pháp sự, thực hành Mật tông, một lòng cầu mong cho chư vị thoát khỏi cảnh khổ, nghiệp ác của cõi ngạ quỷ được tiêu trừ. Một khoa nghi rất nhiều lợi lạc nhưng rất khó hành trì, vì đòi hỏi sự tinh thông cả hai mặt kinh điển và mật điển.

Mật điển của khoa Du-già chẩn tế cô hồn là Tam mật đồng tu:
-Thân kết ấn: thì thân nghiệp thanh tịnh không tạo các tội ác.
     –Miệng niệm thần chú: thì khẩu nghiệp thanh tịnh, không nói các lời ác.
-Ý quán tưởng: thì ý nghiệp thanh tịnh không nghĩ các điều ác.

Khi cả thân khẩu ý đều thanh tịnh thì gọi là Tam mật tương ưng, hòa nhập vào cảnh giới của chư Phật, chư Bồ tát. Chư vị Kinh sư trong trai đàn thành tâm cầu nguyện mười phương Chư Phật gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi tam tâm: từ bi, hỷ xả, bình đẳng, để độ thoát chúng sinh trong cõi địa ngục ngạ quỷ, súc sinh tam đồ ác đạo. Có thể nói đây là một pháp hành trì mà âm cảnh và dương gian đồng lợi lạc. Vì vậy vị chủ sám gia trì sư và chư vị kinh sư phải là những người hành trì và giới hạnh nghiêm minh, luôn thanh tịnh thân tâm, đủ sức thần giao cách cảm trong lời chú nguyện khiến thức ăn biến thành Pháp vị để chúng sinh trong các loài ngạ quỷ được thụ dụng và nhờ vào công đức lực cầu nguyện mà cô hồn được siêu sinh tịnh độ.[5] Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là “thả quỷ miệng lửa”, về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành “tha tội cho tất cả những người chết”. Vì vậy, ngày nay mới có câu : “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”. Rồi từ đó dần dần về sau tại miền nam Việt Nam, tập tục cúng cô hồn này biến thể từ hình thức đến nội dung, chuyển từ khuôn viên chùa ra ngoài dân gian và được lan rộng tổ chức tại các xí nghiệp thương mại và tại các công ty tư lập theo truyền tụng rằng, ngày này cửa địa ngục rộng mở, ngạ quỷ được phóng thích, nên cúng tế chúng để được buôn may bán đắt, tai qua nạn khỏi. Ngày xưa cúng cháo hoa và vàng mã cho cô hồn, canh ốc nhồi nấu với chuối xanh cho người sống; ngày nay giết gà, mổ bò, mổ heo làm cỗ linh đình gọi là cúng cô hồn nhưng thực là cúng cho người sống. Là Phật tử chúng ta không nên đi theo thói đời thường tình, chỉ nên cúng chay theo truyền thống mà không nên giết hại súc vật và nên phát tâm bố thí đến những người nghèo khổ và phóng sinh để báo hiếu cho cha mẹ ông bà quá vãng.

Đến đời Minh, các nghi quỹ thí thực được dùng trong các tông phái bất đồng. Về sau,Thiền sư Thiên Cơ dựa trên cơ sở Du-già diệm thẩu tthực khoa nghi san lược những phần phồn tạp, soạn thành Tu tập Du-già tập yếu tthực đàn nghi, thường được gọi là Thiên cơ diệm khẩu. Sau Đại sư Vân Thê Châu Hoằng lại lược bớt và hiệu đính, soạn thành Du-già tập tếu tthực nghi quỹ, đồng thời có chú giải tỷ mỷ. Đến đời Thanh, ngài Đức Cơ ở núi Bảo Hoa lại biên tập tác phẩm này thành Du-già diệm khẩu tthực yếu tập, thường được gọi là Hoa Sơn diệm khẩu”. Thiên cơ diệm khẩuHoa Sơn diệm khẩu là 2 nghi thức được lưu hành rộng rãi vào đời Thanh. Tất cả các tác phẩm kể trên hiện đều được xếp vào Đại chính tạng hoặc Vạn Tục Tạng Kinh.

Ở Việt Nam, không rõ nghi thức Thí thực này được truyền vào từ lúc nào. Nhưng theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang thì từ đời Trần, nghi thức cúng cô hồn cũng rất thịnh hành. Song song với các kinh sách của thiền phái Yên Tử, các nghi quỹ thí thực cũng được lưu hành rộng rãi. Câu chuyện Tam tổ Huyền Quang đăng đàn chẩn tế và có sự linh nghiệm trước mặt vua quan cũng đã chứng minh điều đó. Hiện chúng tôi đang có trong tay một bản Mông Sơn khoa do hiệu Phúc Nguyên khắc bản (không rõ năm nào) mà tương truyền là tác phẩm này từng được Tam tổ Huyền Quang dự soạn.[6]

Nghi thức Chẩn tế cô hồn ở Việt Nam hiện tại gồm có 3 loại: Đại khoa, Trung khoa và Tiểu khoa nghi. Bản Đại khoa mà chúng tôi hiện có là Diệm khẩu Du-già tập yếu tthực khoa nghi, gọi là Thiên Hòa ttàng bản do Tỳ-kheo Tính Tình phụng khắc vào mùa Phật đản năm Minh Mạng thứ 2 (tức năm Tân Tỵ, 1821). Nếu so với thời điểm Nguyễn Du viết văn Chiêu Hồn (khoảng 1808-1812 hoặc sau nữa) thì bản văn này khắc sau không lâu, điều đó chứng tỏ nghi quỹ này đã có ở Việt Nam cùng hoặc trước thời Nguyễn Du. Trong bản này có khắc lại lời tựa của chính ngài Vân Thê Châu Hoằng viết vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 34 (1607). Đối chiếu toàn văn tác phẩm này với tác phẩm của ngài Châu Hoằng trong Tục Tạng Kinh quyển 59 thì đúng là 1 bản. Chúng tôi còn có trong tay 2 bản Trung khoa, 1 là Sắc tứ Báo Quốc ttàng bản, do công chúa An Thường cùng một số hoàng thân triều Nguyễn mộ khắc vào năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh có sự chứng minh của Hòa thượng Hải Thuận Lương Duyên; bản thứ 2 là Giác Viên tự Mộng Sơn tàng bản, được Giáo thụ Minh Khiêm Hoằng Ân (1856-1914) chứng minh khắc tại chùa Giác Viên (trong khuôn viên Đầm Sen, Tp. HCM hiện nay). Trung khoa chỉ là phần lược của Đại khoa. Nội dung khoa nghi này đều có hai phần: Đàn thượng và Đàn hạ. Đàn thượng là các nghi thức nhập đàn, ấn chú, chân ngôn; đàn hạ chính là phần thỉnh Thập loại cô hồn. Nói là Thập loại, kỳ thực thỉnh đến 13 loại và một số loại cô hồn được thỉnh chung. Nội dung Văn chiêu hồn của Nguyễn Du thì đại đồng tiểu dị với phần Đàn hạ này. Chúng ta thử đối chiếu sơ lược hai phần này để xem chúng giống và khác nhau như thế nào.

Về điểm giống nhau, khoa nghi thỉnh 13 loại cô hồn, tác phẩm của Nguyễn Du tuy nói Văn tế thập loại cô hồn, kỳ thực cũng kể đến 13 loại. Ngoài 13 loại được thỉnh riêng, cả hai tác phẩm còn thỉnh chung nhiều loại khác nữa. Khó mà có thể tin được sự sáng tác của Nguyễn Du lại ngẫu nhiên trùng hợp một cách khít khao với một tác phẩm khoa nghi đương thời đã lưu hành như thế. Còn sự khác nhau của 2 tác phẩm, có thể nói nằm ở thứ tự của các loại. Ta thử so sánh.

Mười ba loại của khoa nghi là

1.Hoàng vương đế bá; 2. Anh hùng tướng soái; 3.Quan văn; 4.Văn nhân;

5.Người xuất gia; 6.Đạo sĩ;  7.Thương nhân;  8.Chiến sĩ;   9.Sản phụ; 10.Di địch; 11.Cung phi; 12.Cái bang;   13.Thập loại cô hồn.

Mười ba loại của văn tế là

1.Vương giả;   2.Công nương; 3.Quan văn;   4.Quan võ;   5.Thương nhân;

6.Trí thức;    7.Ngư phủ.    8.Nông dân;    9.Chiến sĩ;    10.Kỷ nữ;     11.Hành khất;     12.Tù nhân;     13.Tiểu nhi.

So sánh hai tác phẩm thì chúng ta thấy rõ ràng 13 loại cô hồn có phần tương đồng, khác chăng là ở quan niệm sắp xếp trước sau. Đặc biệt là ở tác phẩm của Nguyễn Du, tác giả không kể đến người xuất gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni) như ở trong khoa nghi, phải chăng Nguyễn Du cho rằng những người xuất trần thượng sĩ thì sau khi chết sẽ được tiêu dao thoát tục, không còn bị đọa làm cô hồn? Đây cũng là một điều đặc biệt nói lên thái độ của Nguyễn Du dành cho hàng xuất gia. Theo chú giải của ngài Vân Thê Châu Hoằng thì hàng xuất gia nếu hiện đời không liễu sinh thoát tử vẫn có thể bị đọa làm cô hồn, nên vẫn được thỉnh trong khoa nghi. Còn Nguyễn Du, có lẽ tâm hồn ông dành cho những người đau khổ, quằn quại, cô đơn, kể cả hạng Hoàng vương đế bá, còn hàng xuất gia thì không. Có người cho rằng có thể khi Nguyễn Du đọc khoa nghi, ông không hiểu các thành ngữ dành cho hạng xuất gia như: “Hoàng hoa thúy trúc, không đàm bí mật chân thuyên; Bạch cổ lê nô, đồ diễn khổ không diệu đạo” nên đã bỏ qua không kể hạng này. Tôi e rằng như thế có phần võ đoán, bởi lẽ kiến thức uyên thâm về Phật học của Nguyễn Du mà không hiểu mấy câu trên là vô lý.

Điểm thứ hai, mà cũng là điều dễ hiểu, ngôn ngữ trong khoa nghi là ngôn ngữ cung đình, các tầng lớp được kể trong khoa nghi rất đặc trưng và ước lệ, còn trong tác phẩm của Nguyễn Du thì rất cụ thể và gần gũi, sát với thực tế, hiện trạng người Việt đương thời. Nguyễn Du đã Việt hóa khoa nghi bằng thái độ và tâm hồn của mình. Đây là điểm sáng tạo độc đáo.

Đạo Phật có sứ mạng mang ánh sáng và tình thương đến cho muôn loài. Ánh sáng lung linh của tinh tú, chói lọi của mặt trời, hay u huyền của vầng trăng có thể giúp cho vạn hữu thoát khỏi mọi phiền tạp, mò mẫm, tối tăm và u ám của cuộc đời. Ánh sáng của chính pháp, của tình thương có thể giúp cho muôn loài sống an vui tự tại, xua tan tất cả mọi bóng tối của si mê lầm lạc. Ánh sáng và tình thương là hai sự trạng vô cùng rạng rỡ và hoạt dụng trong nguồn sống của đạo Phật. Đó chính là chất liệu tinh anh, là văn hoá nhân bản được thể hiện một cách trọn vẹn trong Phật giáo và chỉ có trong Phật giáo. Ở đây xin được trình bày một phần nhỏ những giá trị sống với ánh sáng và tình thương ấy trong tinh thần hướng đến những chúng sinh đang chịu nhiều đau khổ nơi Tam đồ nhân ngày lễ Cứu Đảo Huyền hay Vu Lan này.

Trung nguyên ngày hội vọng Vu Lan.

Bến giác chiều thu sóng đạo ngàn.

Những ai là kẻ mang ơn nặng,

Hãy vận lòng thành đón Vu Lan.

Với tất cả chúng ta, ai mà không từng mang những ân nặng trong kiếp sống luân hồi.

Nhân mùa Vu Lan mang ý nghĩa báo ân và tế độ lại về, xin hãy cùng nhau nguyện cầu cho trần gian bớt khổ, chốn u đồ vơi dịu tiếng đau thương. Đó là tất cả tâm thành và nỗi lòng mong báo đền ân nghĩa của các đấng sinh thành và tất cả chúng sinh mà mình đã từng được mang ân nặng trong cuộc đời này. Cuối cùng xin tất cả đồng nhất tâm cầu nguyện : “Đa sinh phụ mẫu, tùng tư nhập thánh siêu phàm, luỵ thế oan thân, tự thử thừa ân giải thoát. Thiên thượng ngũ suy bất hiện, nhân gian tứ tướng giai không, Tu La xả tận sân tâm, địa ngục tức chư khổ báo, hà sa ngạ quỉ, hoá nhiệt não nhi tác thanh lương, vạn loại hàm sinh, xả mê đồ nhi đăng giác ngạn.” (Bao đời cha mẹ từ đây nhập thánh siêu phàm! Lắm kiếp trái oan giờ được nhờ ân giải thoát! Cõi trời “năm suy” không hiện. Cõi trần “bốn tướng” đều không. Tu-la bỏ hết sân tâm. Địa ngục trừ tiêu khổ não. Quỉ đói hà sa, đổi “nóng phiền” trở nên tươi mát. Muôn loài trong cõi “sống” tránh bỏ đường mê, bước lên bờ giác).

 

 

[1] Mùa Hạ ở Ấn Ðộ thường mưa nhiều, là mùa côn trùng sinh sản, nên đức Phật không muốn cho chúng Tăng đi lại nhiều, giẫm đạp lên chúng. Ngài đại từ đại bi, còn không muốn cho các côn trùng bị nuốt vào bụng người mà chết, nên chư tăng ni đều phải có đồ lọc nước để cứu chúng trước khi uống nước. Vì thế mới có lệ chư Tăng Ni an cư ba tháng Hạ trong chùa, hay tịnh xá, để học hỏi giáo pháp và tự thanh tịnh tâm. Do đó, trong ba tháng này, Phật tử đem vật thực đến cúng dường tại chùa, vì các sư không đi từng nhà khất thực.

[2] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sluận Tập I, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội 1979:

[3] Kinh Phật thuyết Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Ðà-la-ni

[4] Tham khảo trang:http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vh/NguyenDu_va_VanTe.htm; của tác giả: Thích nguyên Hiền &ldquoNguyễn Du và văn tế thập loại chúng sinh&rdquo.

[5] Tham khảo tại trang:http://www.tangthuphathoc.com/nghiencuuph/ynghiachanteamlinhcohon.htm

[6] Bản này được Thượng tọa Thích Lệ Trang tìm được ở miền Bắc. Nhân đây tôi xin chân thành cảm tạ Thượng tọa đã cho chúng tôi mượn tài liệu này cùng nhiều lời chỉ giáo quý báu.